Luận án Đánh giá kết quả điều trị và sự thay đổi một số yếu tố miễn dịch trên bệnh nhân vảy nến thông thường được chiếu tia cực tím dải hẹp

Luận án Đánh giá kết quả điều trị và sự thay đổi một số yếu tố miễn dịch trên bệnh nhân vảy nến thông thường được chiếu tia cực tím dải hẹp trang 1

Trang 1

Luận án Đánh giá kết quả điều trị và sự thay đổi một số yếu tố miễn dịch trên bệnh nhân vảy nến thông thường được chiếu tia cực tím dải hẹp trang 2

Trang 2

Luận án Đánh giá kết quả điều trị và sự thay đổi một số yếu tố miễn dịch trên bệnh nhân vảy nến thông thường được chiếu tia cực tím dải hẹp trang 3

Trang 3

Luận án Đánh giá kết quả điều trị và sự thay đổi một số yếu tố miễn dịch trên bệnh nhân vảy nến thông thường được chiếu tia cực tím dải hẹp trang 4

Trang 4

Luận án Đánh giá kết quả điều trị và sự thay đổi một số yếu tố miễn dịch trên bệnh nhân vảy nến thông thường được chiếu tia cực tím dải hẹp trang 5

Trang 5

Luận án Đánh giá kết quả điều trị và sự thay đổi một số yếu tố miễn dịch trên bệnh nhân vảy nến thông thường được chiếu tia cực tím dải hẹp trang 6

Trang 6

Luận án Đánh giá kết quả điều trị và sự thay đổi một số yếu tố miễn dịch trên bệnh nhân vảy nến thông thường được chiếu tia cực tím dải hẹp trang 7

Trang 7

Luận án Đánh giá kết quả điều trị và sự thay đổi một số yếu tố miễn dịch trên bệnh nhân vảy nến thông thường được chiếu tia cực tím dải hẹp trang 8

Trang 8

Luận án Đánh giá kết quả điều trị và sự thay đổi một số yếu tố miễn dịch trên bệnh nhân vảy nến thông thường được chiếu tia cực tím dải hẹp trang 9

Trang 9

Luận án Đánh giá kết quả điều trị và sự thay đổi một số yếu tố miễn dịch trên bệnh nhân vảy nến thông thường được chiếu tia cực tím dải hẹp trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 219 trang Hà Tiên 02/06/2024 680
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Đánh giá kết quả điều trị và sự thay đổi một số yếu tố miễn dịch trên bệnh nhân vảy nến thông thường được chiếu tia cực tím dải hẹp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Đánh giá kết quả điều trị và sự thay đổi một số yếu tố miễn dịch trên bệnh nhân vảy nến thông thường được chiếu tia cực tím dải hẹp

Luận án Đánh giá kết quả điều trị và sự thay đổi một số yếu tố miễn dịch trên bệnh nhân vảy nến thông thường được chiếu tia cực tím dải hẹp
hưởng của hội chứng chuyển hóa đến sự thay đổi nồng độ các 
cytokine 
Bảng 3.52. Ảnh hưởng của hội chứng chuyển hóa đến sự thay đổi nồng độ 
IL-17 trước điều trị và khi đạt PASI 75 (n=31) 
Hội chứng 
chuyển hóa 
n 
Trƣớc Sau IL-17 
(T-S) 
p* 
 ̅ ± SD ̅ ± SD 
BMI 
<23 15 
8,25 ± 17,81 3,88 ± 6,51 
4,38 ± 20,03 
0,65 
p=0,061 
≥ 23 16 
7,81 ± 13,63 2,71 ± 1,99 
5,09 ± 13,29 
p=0,028 
Vòng bụng 
Bình 
thường 
27 
8,04 ± 16,54 3,16 ± 4,97 
4,88 ± 17,71 
0,46 
p=0,022 
Tăng 4 
7,90 ± 6,25 4,08 ± 2,40 
3,83 ± 6,26 
p=0,068 
Huyết áp 
Bình 
thường 
27 
3,89 ± 4,63 3,43 ± 5,00 
0,47 ± 6,40 
0,10 
p=0,014 
Tăng 4 
35,91 ± 32,14 2,27 ± 1,57 
33,64 ± 33,53 
p=0,144 
Cholesterol 
Bình 
thường 
27 
7,19 ± 16,19 3,07 ± 4,94 
4,11 ± 17,48 
0,03 
0,039 
Tăng 4 
13,67 ± 9,51 4,65 ± 2,58 
9,02 ± 9,01 
p=0,068 
Triglycerid 
Bình 
thường 
16 
7,05 ± 17,19 1,97 ± 1,23 
5,08 ± 17,73 
0,64 
p=0,052 
Tăng 15 
9,07 ± 14,06 4,67 ± 6,45 
4,39 ± 15,93 
p=0,061 
Glucose 
Bình 
thường 
20 
6,95 ± 15,46 3,46 ± 5,67 
3,50 ± 17,29 
0,76 
p=0,040 
Tăng 11 
9,97 ± 16,19 2,95 ± 2,23 
7,02 ± 15,83 
p=0,067 
* Wilcoxon test (so sánh ghép cặp trước – sau) 
 * Kruskal-Wallis test (so sánh trung bình sự thay đổi của hai nhóm) 
Nhận xét: 
 Sự giảm IL-17 trước và sau điều trị là có ý nghĩa thống kê ở nhóm có chỉ số 
BMI ≥ 23; vòng bụng bình thường; huyết áp bình thường; cholesterol máu 
bình thường và glucose máu bình thường với p < 0,05. 
 Mức độ giảm IL-17 trước và sau điều trị ở nhóm có colesterol máu tăng 
cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm có cholesterol máu bình thường với 
p < 0,05. 
103 
Bảng 3.53. Ảnh hưởng của hội chứng chuyển hóa đến sự thay đổi nồng độ 
IL-23 trước điều trị và khi đạt PASI 75 (n=31) 
Hội chứng chuyển 
hóa 
n 
Trƣớc Sau IL-23 
(T-S) 
p* 
 ̅ ± SD ̅ ± SD 
BMI 
<23 15 
18,54 ± 23,17 11,31 ± 18,56 
7,23 ± 13,96 
0,27 
p=0,031 
≥ 23 16 
13,24 ± 20,75 6,42 ± 9,82 
6,82 ± 22,39 
p=0,453 
Vòng bụng 
Bình 
thường 
27 
17,51 ± 22,8 9,13 ± 15,46 
8,38 ± 19,31 
0,15 
p=0,018 
Tăng 4 
4,32 ± 4,72 6,50 ± 8,54 
-2,19 ± 7,41 
p=0,353 
Huyết áp 
Bình 
thường 
27 
14,96 ± 19,15 9,78 ± 15,45 
5,18 ± 13,36 
1 
p=0,047 
Tăng 4 
21,50 ± 38,75 2,10 ± 3,95 
19,41 ± 40,42 
p=0,715 
Cholesterol 
Bình 
thường 
27 
16,69 ± 22,68 8,56 ± 14,81 
8,13 ± 19,49 
0,25 
0,023 
Tăng 4 
9,81 ± 14,71 10,30 ± 15,73 
-0,49 ± 6,09 
p=0,578 
Triglycerid 
Bình 
thường 
16 
12,59 ± 14,80 16,34 ± 9,26 
6,24 ± 13,85 
0,77 
p=0,066 
Tăng 15 
19,24 ± 27,47 11,4 ± 18,85 
7,85 ± 22,92 
p=0,320 
Glucose 
Bình 
thường 
20 
14,96 ± 20,84 10,27 ± 16,50 
4,69 ± 14,72 
0,55 
p=0,211 
Tăng 11 
17,35 ± 24,28 6,09 ± 10,78 
11,25 ± 24,14 
p=0,056 
* Wilcoxon test (so sánh ghép cặp trước – sau) 
 * Kruskal-Wallis test (so sánh trung bình sự thay đổi của hai nhóm) 
Nhận xét: 
 Sự giảm IL-23 trước và sau điều trị là có ý nghĩa thống kê ở nhóm có chỉ số 
BMI < 23; vòng bụng bình thường; huyết áp bình thường và cholesterol máu 
bình thường với p < 0,05. 
 Mức độ giảm IL-23 trước và sau điều trị theo BMI, vòng bụng, huyết áp, 
cholesterol máu, triglycerid máu và glucose máu khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê với p > 0,05. 
104 
Bảng 3.54. Ảnh hưởng của hội chứng chuyển hóa đến sự thay đổi nồng độ 
TNF-α trước điều trị và khi đạt PASI 75 (n=31) 
Hội chứng chuyển 
hóa 
n 
Trƣớc Sau TNF-α 
(T-S) 
p* 
 ̅ ± SD ̅ ± SD 
BMI 
<23 15 
66,96 ± 174,44 34,14 ± 43,89 
32,82 ± 183,22 
0,15 
p=0,609 
≥ 23 16 
171,28 ± 371,03 47,63 ± 95,90 
123,64 ± 357,08 
p=0,114 
Vòng bụng 
Bình 
thường 
27 
134,38 ± 311,74 46,08 ± 78,70 
88,30 ± 305,11 
0,98 
p=0,355 
Tăng 4 
29,19 ± 57,38 7,57 ± 6,39 
21,62 ± 59,39 
p=0,853 
Huyết áp 
Bình 
thường 
27 
138,05 ± 310,88 44,97 ± 78,88 
93,08 ± 304,26 
0,44 
p=0,225 
Tăng 4 
4,35 ± 4,95 15,01 ± 21,86 
-10,66 ± 25,46 
p=0,465 
Cholesterol 
Bình 
thường 
27 
73,1 ± 153,48 44,28 ± 78,84 
28,82 ± 143,71 
0,045 
p=0,838 
Tăng 4 
442,79 ± 703,96 19,70 ± 29,56 
423,10 ± 675,24 
p=0,144 
Triglycerid 
Bình 
thường 
16 
49,32 ± 102,77 59,17 ± 97,64 
-9,85 ± 50,66 
0,03 
p=0,066 
Tăng 15 
197,05 ± 400,70 21,84 ± 29,93 
175,21 ± 391,22 
p=0,064 
Glucose 
Bình 
thường 
20 
151,44 ± 359,05 43,89 ± 87,07 
107,55 ± 347,05 
0,51 
p=0,27 
Tăng 11 
65,10 ± 85,41 36,05 ± 46,73 
29,05 ± 106,86 
p=0,722 
* Wilcoxon test (so sánh ghép cặp trước – sau) 
 * Kruskal-Wallis test (so sánh trung bình sự thay đổi của hai nhóm) 
Nhận xét: 
 Mức độ giảm TNF-α trước và sau điều giữa nhóm có cholesterol máu tăng 
cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm có cholesterol máu bình thường với 
p < 0,05. 
 Mức độ giảm TNF-α trước và sau điều giữa nhóm có triglycerid máu tăng 
cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm có triglycerid máu bình thường với 
p < 0,05. 
105 
CHƢƠNG 4 
BÀN LUẬN 
4.1. Đặc điểm đối tƣợng nghiên cứu 
4.1.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu 
Phân bố theo tuổi 
 Trong nghiên cứu của chúng tôi, độ tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân 
tham gia là 33,46 ± 12,45, độ tuổi trong lứa tuổi lao động. Kết quả này phù hợp 
với nghiên cứu của một số tác giả trong và ngoài nước như nghiên cứu của Lê 
Anh Tuấn [126], Antoni và cộng sự [127], độ tuổi trung bình lần lượt là 
44,12 ± 11,93; 47,10 ± 12. Tuổi trung bình trong độ tuổi lao động. Theo kết 
quả ở bảng 3.1 cho thấy, bệnh vảy nến phân bố rộng ở nhiều nhóm tuổi, nhóm 
tuổi dưới 50 tuổi chiếm số lượng bệnh nhân nhiều nhất (chiếm 85,72%) trong 
đó nhóm dưới 30 tuổi chiếm 46,43%, nhóm 30-39 chiếm 26,79%, 40-49 chiếm 
12,50%. nhóm tuổi chiếm tỉ lệ thấp nhất (3,57%) là nhóm trên 60 tuổi. Kết quả 
này của chúng tôi tương tự với kết quả trong nghiên cứu của Trần Văn Tiến 
[15]. Điều này cho thấy rằng bệnh vảy nến ảnh hưởng chủ yếu đến nhóm đang 
trong độ tuổi lao động chính của xã hội. Chính điều này ảnh hưởng đến chất 
lượng lao động cũng như ảnh hưởng mặt xã hội của bệnh nhân, tạo ra một gánh 
nặng lớn cho xã hội cũng như gia đình bệnh nhân. 
Phân bố theo giới tính 
Tỉ lệ giới tính ở bệnh nhân vảy nến trong các nghiên cứu lâm sàng điều 
trị vảy nến khác nhau tùy từng tác giả. Tuy nhiên, những nghiên cứu về điều 
trị vảy nến bằng phương pháp chiếu tia cực tím thì hầu hết các tác giả đều 
thấy tỉ lệ bệnh nhân nam giới tham gia nhiều hơn nữ giới. Điều này có thể lý 
giải rằng tác dụng phụ hay gặp nhất trong điều trị vảy nến bằng phương pháp 
chiếu tia cực tím là tăng sắc tố. Vì vậy, bệnh nhân nữ e ngại khá nhiều khi so 
sánh tình trạng tăng sắc tố sau chiếu tia cực tím với đặc điểm sắc của bệnh 
vảy nến khi quyết định điều trị. Trong nghiên cứu của chúng tôi, theo biểu đồ 
3.1 cho thấy tỉ lệ nam/nữ là 69,64/30,36%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi 
106 
phù hợp với nghiên cứu của Trần Văn Tiến tại bệnh viện Da liễu Trung ương 
[15] và Phan Huy Thục tại Bệnh viện Trung ương quân đội 108 [128]. Ngoài 
ra, để giải thích điều này có thể vì nam giới có chế độ sinh hoạt không điều 
độ, hay sử dụng chất kích thích như uống rượu bia, hút thuốc lá. Ngoài ra nam 
giới đảm nhiệm vai trò trụ cột chính trong một gia đình, có nhiều công việc 
nặng, stress tâm lý nhiều hơn phụ nữ, dễ khởi phát và làm nặng bệnh vảy nến 
hơn, nên nhu cầu điều trị cũng cao hơn. 
Phân bố theo tuổi khởi phát bệnh 
 Tuổi khởi phát bệnh chúng tôi dựa vào kết quả chẩn đoán xác định vảy 
nến lần đầu bệnh nhân đến khám tại cơ sở chuyên khoa da liễu. Theo biểu đồ 
3.2, tuổi khởi phát bệnh của các đối tượng tham gia nghiên cứu chủ yếu dưới 
40 tuổi chiếm 87,50 %, chỉ có 7 bệnh nhân chiếm 12,50% khởi phát bệnh từ 
40 tuổi trở lên. Điều này cũng phù hợp với tuổi khởi phát bệnh của bệnh nhân 
vảy nến thường từ 15-30 tuổi [4]. 
Phân bố theo thời gian mắc bệnh 
Để xác định thời gian khởi phát bệnh là việc khó khăn. Tuy nhiên việc 
xác định tuổi khởi phát tương đối dựa trên trí nhớ của bệnh nhân về thời điểm 
khởi phát triệu chứng bệnh đầu tiên. Phân bố về thời gian bị bệnh, theo biểu 
đồ 3.3, nhóm bệnh nhân có thời gian mắc bệnh trên 5 năm là 57,14% và dưới 
5 năm là 42,86%. Kết quả tác giả Atoni và cộng sự với thời gian mắc bệnh 
trung bình là 8,40± 7,20, của Đỗ Quang Trọng là 7,6 năm [127], [129]. Với 
kết quả của chúng tôi lấy mốc 5 năm để đánh giá, cần có nghiên cứu sâu hơn 
về vấn đề này. 
4.1.2. Đặc điểm tiền sử bệnh nhân 
Tiền sử gia đình có vảy nến 
Đã từ lâu, vảy nến được xem là bệnh có tính chất gia đình. Người ta ước 
tính rằng nếu cả bố và mẹ đều bị bệnh vảy nến thì nguy cơ bị bệnh ở con là 41%, 
tỷ lệ này là 14% nếu chỉ bố hoặc mẹ bị bệnh, 6% nếu có một người anh chị/em 
ruột bị bệnh và 2% nếu không có bố, mẹ, anh, chị, em ruột bị bệnh [17]. Như 
107 
nghiên cứu của Đỗ Quang Trọng, trong số 152 bệnh nhân nghiên cứu thì có 
19,74% người có tiền sử gia đình mắc bệnh vảy nến [129]. Nghiên cứu của 
Swanbeck và cộng sự cho thấy nếu trong gia đình không có cha mẹ bị bệnh 
vảy nến, hoặc chỉ có một phụ huynh bị bệnh hoặc cả hai cha mẹ mắc bệnh vảy 
nến thì nguy cơ con mắc bệnh vảy nến tương ứng là 0,04; 0,28; 0,65. Nếu đã 
có một đứa trẻ bị ảnh hưởng trong gia đình, nguy cơ tương ứng là 0,24; 0,51 
và 0,83 [130]. Theo Đặng Văn Em và cộng sự nghiên cứu trên các bệnh nhân 
vảy nến ở Bệnh viện Trung ương quân đội 108 cho thấy tỉ lệ này là 10,46% 
[131]. Còn nghiên cứu của Trần Văn Tiến (2004) tại Bệnh viện Da liễu Trung 
ương tỉ lệ bệnh nhân có tiền sử gia đình là 7,46% [15]. Theo biểu đồ 3.4, 
19,64% bệnh nhân có tiền sử gia đình bị vảy nến. Kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi cao hơn so với các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước có thể 
do chúng tôi thu thập thông tin tiền sử gia đình bị vảy nến của gia đình trong 
3 thế hệ. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng vảy nến là bệnh 
có tính chất gia đình, nguy cơ mắc bệnh vảy nến ở những người trong gia 
đình có người bị bệnh vảy nến cao hơn những người không có tiền sử gia 
đình. Cần có them các nghiên cứu sâu hơn nữa về gen và di truyền ở bệnh 
nhân vảy nến của Việt Nam để làm rõ vấn đề này. 
Tiền sử điều trị trước khi tham gia nghiên cứu 
 Theo kết quả ở bảng 3.2, trong các thuốc bôi tại chỗ thì corticoid được 
sử dụng nhiều nhất (80,36%), sau đó đến các thuốc bạt sừng bong vảy và cuối 
cùng là thuốc calcipotriol chiếm tỉ lệ lần lượt là 58,93% và 44,64%. Trong các 
thuốc đường toàn thân, được sử dụng nhiều nhất là methotrexate chiếm tỉ lệ 
28,57%. Đặc biệt có 3 bệnh nhân (chiếm 5,36%) có sử dụng thuốc corticoid 
đường toàn thân. Trong 3 bệnh nhân này có một bệnh nhân sử dụng thuốc 
uống dạng viên có chứa thành phần corticoid không rõ nguồn gốc tự mua và 
hai bệnh nhân sử dụng corticoid đường tiêm (K-cort) tại phòng khám tư. 
Trong quá trình thực hành lâm sàng chúng tôi cũng nhận thấy nhiều trường 
hợp bệnh nhân vảy nến thông thường được chỉ định uống hoặc tiêm corticoid 
108 
để điều trị vảy nến bởi các cơ sở y tế tư nhân, thời gian đầu bệnh nhân được 
ghi nhận có cải thiện triệu chứng tuy nhiên sau đó tổn thương thường bùng 
phát nặng hơn hoặc chuyển từ vảy nến thông thường sang vảy nến thể khác. 
Một bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi đã ghi nhận bùng phát vảy nến 
thể mủ toàn thân sau tiêm K-cort liều cao (4 lọ/ngày) liên tục trong vòng 5 
ngày. Sử dụng corticoid đường toàn thân để điều trị bệnh vảy nến thông 
thường không được khuyến cáo vì nguy cơ gặp phải tác dụng phụ của thuốc 
khi sử dụng lâu dài và nguy cơ tiến triển từ thể thông thường sang thể nặng 
như đỏ da toàn thân hay vảy nến thể mủ toàn thân. Theo nghiên cứu của Phạm 
Thị Thảo trên 60 bệnh nhân vảy nến thể nặng, có 13,3% bệnh nhân bùng phát 
bệnh sau dùng corticoid đường toàn thân, đặc biệt ở nhóm bệnh nhân vảy nến 
thể mủ toàn thân là 23,3% [132]. Ngoài ra, trong nghiên cứu có một tỉ lệ cao 
bệnh nhân có tiền sử dùng thuốc đông y để điều trị bệnh chiếm 30,36%. 
Chúng ta cần khuyến cáo bệnh nhân thận trọng trong việc dùng thuốc đông y, 
đặc biệt là thuốc đông y không rõ nguồn gốc. Bởi vì, theo nghiên cứu của 
Phạm Thị Thảo 25% bệnh nhân bùng phát bệnh sau sử dụng thuốc nam, cũng 
tương tự như thế theo nghiên cứu của Trần Văn Tiến là 17,91% [15], [132]. 
4.1.3. Các yếu tố khởi phát bệnh 
Có nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng lao động thể lực và stress tâm lý là 
các yếu tố kích thích làm bệnh nặng lên. Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng 
chỉ ra có 32,14% bệnh nhân có stress là yếu tố khởi phát tình trạng bệnh. Kết 
quả tác động của yếu tố tâm lý lên khởi phát bệnh trong nghiên cứu của chúng 
tối thấp hơn nghiên cứu của Lê Anh Tuấn, Phan Huy Thục yếu tố stress 
chiếm lần lượt là 40,90% và 42,39% [126] [128]. Điều này có thể giải thích 
rằng trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ xét đến các yếu tố tinh thần, chưa 
đánh giá toàn bộ các vấn đề khác nên tỉ lệ thấp hơn. Tuy nhiên, nhìn chung 
cho thấy yếu tố tinh thần, stress là một trong những nguyên nhân khởi phát 
bệnh. Vì biểu hiện trên da khiến bệnh nhân mặc cảm, tự ti về bệnh, đồng thời 
ngại giao tiếp làm cho họ dễ bị stress và tình trạng bệnh nặng lên. Vòng xoắn 
109 
bệnh lý giữa vấn đề tâm lý tinh thần, stress và tình trạng nặng của bệnh. Do 
vậy, nhân viên y tế cần phối hợp giữa điều trị bệnh và tư vấn tâm lý. 
Rượu – bia cũng là nhưng yếu tố có liên quan đến khởi phát vảy nến. 
Theo bảng 3.3 có 17,86% bệnh nhân có yếu tố khởi phát bệnh, kết quả này 
tương đồng với Caroline Svanstrom khi nghiên cứu trên 95 bệnh nhân vảy 
nến thấy có 17-30% bệnh nhân có ảnh hưởng của rượu [133]. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi có đánh giá các yếu tố về thuốc, nhiễm 
trùng và hút thuốc lá tác động khởi phát vảy nến với tỉ lệ lần lượt là 10,71%, 
5,36% và 3,57%. Cần có đánh giá sâu hơn để có thể kết luận các yếu tố này 
tác động như thế nào đến vảy nến. 
4.1.4. Đặc điểm lâm sàng nhóm nghiên cứu 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đối tượng được lựa chọn là những 
bệnh nhân vảy nến mức độ vừa và nặng, trong đó theo bảng 3.4, đánh giá mức 
độ bệnh thông qua chỉ số PASI, nhóm mức độ vừa chiếm 87,50%, mức độ 
nặng chiếm 12,50%. Về biểu hiện tổn thương móng kèm theo trong nghiên 
cứu của chúng tôi là khá cao chiếm 69,64%. Kết quả này của chúng tôi tương 
tự với kết quả nghiên cứu của tác giả trong nước như Trần Văn Tiến 70,9% 
[15], Phạm Thị Thảo là 81,7% [132], và một số tác giả nước ngoài như 
Bardazzi và cộng sự thấy biểu hiện móng ở bệnh nhân vảy nến biểu hiện ở da 
là 50-79% và lên đến 80% bệnh nhân bị viêm khớp vảy nến [134]. Tác giả 
Muneer và Masood thấy biểu hiện móng trên bệnh nhân vảy nến thông 
thường và vảy nến thể khớp với tỉ lệ lần lượt là 10% đến 55% và 80% đến 
90% [135]. Biểu hiện niêm mạc nhóm nghiên cứu của chúng tôi theo bảng 3.7 
là 3,57%. 
Theo biểu đồ 3.5, triệu chứng cơ năng kèm theo phổ biến nhất của bệnh 
nhân trong nhóm nghiên cứu là ngứa chiếm 73,21%. Kết quả này tương đồng 
với nhiều tác giả như Szepietowski và Reich đánh giá ngứa ảnh hưởng đến 
60-90% bệnh nhân mắc vảy nến [136]. Tác giả Hawro và cộng sự thấy có 
80% bệnh nhân vảy nến có ngứa [137]. Ngoài ra, theo biểu đồ 3.5, trong 
110 
nghiên cứu của chúng tôi triệu chứng nóng rát chỉ có 1 bệnh nhân chiếm 
1,79% và không có bệnh nhân có biểu hiện đau nhức tại da. 
 DLQI là thước đo phổ biến nhất được áp dụng để đánh giá chất lượng 
cuộc sống liên quan đến sức khỏe ở bệnh nhân vảy nến. Đây là một trong 
những tiêu chí xác định bệnh vảy nến từ trung bình đến nặng và có trong 
hướng dẫn điều trị. Đối tượng tham gia nghiên cứu của chúng tôi là những 
bệnh nhân mức độ vừa và nặng, điểm đánh giá chất lượng cuộc sống (DLQI) 
của bệnh nhân theo bảng 3.9 chủ yếu trong từ 6-20 điểm. Vảy nến ảnh hưởng 
nhiều đến rất nhiều đến cuộc sống sinh hoạt của bệnh nhân. Điều này tương 
ứng với mục tiêu lựa chọn bên nhân tham gia nghiên cứu. Đánh giá mức độ 
bệnh vảy nến ngoài việc thông qua chỉ số PASI, BSA còn cần dựa vào DLQI, 
để đưa ra lựa chọn điều trị phù hợp cho bệnh nhân. 
4.1.5. Đặc điểm cận lâm sàng của bệnh nhân trước điều trị 
 Chúng tôi đánh giá các chỉ số công thức máu trước điều trị đánh giá 
tình trạng đồng thời theo dõi sau điều trị của bệnh nhân. Kết quả tại bảng 3.7 
cho thấy chỉ số trung bình về hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu của các đối 
tượng tham gia nghiên cứu trước điều trị nằm trong giới hạn bình thường. Về 
sinh hóa máu, các chỉ số trong hội chứng chuyển hóa chúng tôi sẽ đề cập ở 
phía dưới. Theo bảng 3.8, xét về chức năng gan và thận thông qua giá trị 
trung bình của AST, ALT, bilirubil TP, TT và ure, creatinin đều nằm trong 
giới hạn bình thường. 
4.1.6. Đặc điểm liên quan đến hội chứng rối loạn chuyển hóa 
 Bệnh vảy nến thể mảng mãn tính là một bệnh viêm da qua trung gian 
miễn dịch có liên quan đến các đặc điểm lâm sàng của hội chứng chuyển hóa 
gồm béo bụng, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, tiểu đường týp II, kháng 
insulin và bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu. Đặc biệt, tỉ lệ mắc hội chứng 
chuyển hóa trên bệnh nhân vảy nến dao động từ 20% đến 50%, với nguy cơ 
mắc ít nhất là gấp đôi so với những người không bị vảy nến [30]. Trong 
nghiên cứu trước đây chúng tôi đánh giá hội chứng chuyển hóa trên 130 bệnh 
111 
nhân vảy nến thể mủ thực hiện tại bệnh viện Da liễu Trung ương tiến hành 
năm 2015, có 40 bệnh nhân mắc hội chứng chuyển hóa chiếm 30,80% [31]. 
Theo bảng 3.9, trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu có 8,93% bệnh nhân tăng 
huyết áp, 32,14% bệnh nhân tăng glucose lúc đói, tăng triglycerid, cholesterol 
lần lượt là 51,79%, 14,29%. Bên cạnh đó, nhóm bệnh nhân tham gia nghiên 
cứu của chúng tôi có 29,41% bệnh nhân nữ và 12,82% bệnh nhân nam tăng 
chỉ số vòng bụng. Theo nghiên cứu của Gisondi và cộng sự [30], bệnh vảy 
nến và hội chứng chuyển hóa có chung nhiều yếu tố nguy cơ. 
 Mối liên quan giữa béo phì và bệnh vảy nến đã được báo cáo nhiều 
năm nay, trong nghiên cứu của Paroutoglou và cộng sự cho thấy béo phì có 
liên quan đến tỉ lệ mắc cao hơn cũng như mức độ nghiêm trọng của bệnh vảy 
nến, liên quan đến vấn đề đáp ứng kém với thuốc sinh học TNF-α. Việc điều 
chỉnh chế độ ăn và tập thể dục có thể cải thiện bệnh vảy nến có từ trước và 
ngăn ngừa xuất hiện vảy nến mới7. Trong nghiên cứu của chúng tôi, theo bảng 
3.10 nhóm bệnh nhân quá cân chiếm tỉ lệ 33,93%, béo phì độ I chiếm 14,29%. 
Từ kết quả này cho thấy cần phải có có sự phối hợp toàn diện đối với mỗi 
bệnh nhân, từ điều trị đến tư vấn chế độ ăn, tập luyện, đặc biệt trên những 
bệnh nhân quá cân và béo phí. 
4.2. Kết quả điều trị bệnh vảy nến thông thƣờng mức độ vừa và nặng 
đƣợc chiếu tia cực tím dải hẹp (UVB 311nm) 
4.2.1. Kết quả điều trị lâm sàng 
4.2.1.1. Kết quả điều trị theo chỉ số PASI 75 và chỉ số chất lượng cuộc sống 
 Theo kết quả tại bảng 3.11, tổng số bệnh nhân đạt PASI 75 là 43 bệnh 
nhân, chiếm tỉ lệ 76,79% trong tổng số 56 bệnh nhân được điều trị đủ phác đồ 
(chiếu tối đa 36 lần hoặc đến khi đạt PASI 75). Trong 13 bệnh nhân còn lại 
không đạt PASI 75, có 7 bệnh nhân đạt kết quả giảm chỉ số PASI từ 50 - 75%, 
chiếm tỉ lệ 12,5%, có 6 bệnh nhân đáp ứng kém (không đạt PASI 50) chiếm tỉ 
lệ 10,71%. 
112 
 Kết quả này cao hơn so với kết quả của một số nghiên cứu của các tác 
giả khác. Nghiên cứu mù đôi của Sami Yones và cộng sự trên 93 bệnh nhân 
vảy nến thể mảng mức độ vừa nặng điều trị PUVA và UVB dải hẹp, trong đó 
tác giả sử dụng phác đồ chiếu NB-UVB 2 lần/tuần ở 47 bệnh nhân. Kết quả 
cho tỉ lệ sạch tổn thương là 65% ở nhóm điều trị NB-UVB [118]. Có thể trong 
nghiên cứu này, tác giả sử dụng phác đồ chiều 2 lần/tuần, ít hơn so với chúng 
tôi là 3 lần/tuần, bên cạnh đó tác giả lấy mốc kết quả điều trị là sạch tổn 
thương, cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi lấy mốc kết quả chỉ là đạt 
PASI 75. Kết quả của chúng tôi cũng thấp hơn tỉ lệ sạch tổn thương ở nhóm 
bệnh nhân điều trị PUVA trong nghiên cứu này với 84% bệnh nhân đạt kết 
quả điều trị trong tổng số 46 bệnh nhân điều trị bằng PUVA. Tỉ lệ này cao 
hơn có ý nghĩa (p = 0,02) so với nhóm NB-UVB, qua đó tác giả kết 

File đính kèm:

  • pdfluan_an_danh_gia_ket_qua_dieu_tri_va_su_thay_doi_mot_so_yeu.pdf
  • pdf4. Trich yeu luan an UVB Bs Nghi - TV, TA ban nop.pdf
  • pdf2. TÓM TẮT TIẾNG VIỆT.pdf
  • pdf2. TÓM TẮT TIẾNG ANH.pdf
  • pdf1. THÔNG TIN TÓM TẮT NHỮNG KẾT LUẬN MỚI.pdf
  • docx1. THÔNG TIN TÓM TẮT NHỮNG KẾT LUẬN MỚI.docx