Luận án Định tuyến tiết kiệm năng lượng tiêu thụ trong mạng cảm biến không dây

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Định tuyến tiết kiệm năng lượng tiêu thụ trong mạng cảm biến không dây", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Định tuyến tiết kiệm năng lượng tiêu thụ trong mạng cảm biến không dây
hông dây. Loại nút thứ tư được giới thiệu trong giao thức này được
gọi là nút ultra super có (1 + u) năng lượng nhiều hơn các nút normal. Giao thức này
chứng minh rằng với sự gia tăng tính không đồng nhất, giai đoạn ổn định tăng lên là
một tham số rất quan trọng cho một thông tin đáng tin cậy. BEENISH sử dụng cùng
một khái niệm cho lựa chọn CH như trong các giao thức trước đó với chỉ sự khác biệt
là thêm vào xác suất cho nút ultra-super. Các xác suất của các nút ultra- super, super,
advance và các nút normal để trở thành CH được đưa ra theo công thức (2.17):
(2.17) Công thức tính xác suất chọn CH trong giao thức BEENISH
Mô phỏng cho thấy BEENISH [54], [55] là các giao thức hiệu quả nhất so với
DEEC, DDEEC, EDEEC về thời gian ổn định, tuổi thọ mạng và thông lượng.
2.2.3 Giao thức định tuyến dựa trên dữ liệu (Data centric protocols)
Trong nhiều ứng dụng của mạng cảm ứng thì việc xác định số nhận dạng toàn
cầu cho từng nút là không khả thi. Việc thiếu số nhận dạng toàn cầu cùng với việc
triển khai ngẫu nhiên các nút gây khó khăn trong việc chọn ra tập hợp các nút chuyên
dụng. Vì thế dữ liệu được truyền từ mọi nút trong vùng triển khai với độ dư thừa đáng
kể, nên việc sử dụng năng lượng sẽ không hiệu quả. Do vậy, người ta đã đưa ra các
giao thức định tuyến mà có khả năng chọn ra tập hợp các nút và thực hiện tập trung
dữ liệu trong suốt quá trình truyền. Điều này đã dẫn đến ý tưởng về giao thức dựa
trên dữ liệu. Trong giao thức định tuyến này, Sink gửi yêu cầu đến các vùng xác định
và đợi dữ liệu từ các cảm biến đã được chọn trước trong vùng. SPIN là giao thức đầu
tiên thuộc loại này mà đã đề cập đến việc dàn xếp dữ liệu giữa các nút để giảm bớt
sự dư thừa dữ liệu và tiết kiệm năng lượng. Sau đó Directed Diffusion (truyền tin trực
tiếp) được phát triển và là một giao thức rất đáng chú ý trong định tuyến dựa trên dữ
liệu.
𝑃(𝑖) =
{
𝑃𝑜𝑝𝑡 . 𝐸𝑖(𝑟)
1+𝑚(𝑎+ 𝑚0(−𝑎+𝑏+𝑚1(−𝑏+𝑢)))).E̅(𝑟)
𝑐ℎ𝑜 𝑐á𝑐 𝑛𝑜𝑟𝑚𝑎𝑙 𝑛𝑜𝑑𝑒
𝑃𝑜𝑝𝑡 .(1+𝑎).𝐸𝑖(𝑟)
1+𝑚(𝑎+ 𝑚0(−𝑎+𝑏+𝑚1(−𝑏+𝑢)))).E̅(𝑟)
𝑐ℎ𝑜 𝑐á𝑐 𝑎𝑑𝑣𝑎𝑛𝑐𝑒 𝑛𝑜𝑑𝑒
𝑃𝑜𝑝𝑡 .(1+𝑏).𝐸𝑖(𝑟)
1+𝑚(𝑎+ 𝑚0(−𝑎+𝑏+𝑚1(−𝑏+𝑢)))).E̅(𝑟)
𝑐ℎ𝑜 𝑐á𝑐 𝑠𝑢𝑝𝑒𝑟 𝑛𝑜𝑑𝑒
𝑃𝑜𝑝𝑡 .(1+𝑢).𝐸𝑖(𝑟)
1+𝑚(𝑎+ 𝑚0(−𝑎+𝑏+𝑚1(−𝑏+𝑢)))).E̅(𝑟)
𝑐ℎ𝑜 𝑐á𝑐 𝑢𝑙𝑡𝑟𝑎 − 𝑠𝑢𝑝𝑒𝑟 𝑛𝑜𝑑𝑒
(2.17)
36
2.2.3.1 SPIN (Sensor protocols for information via negotiation)
SPIN [56], [57] là giao thức cảm biến thông qua sự đàm phán dữ liệu. Mục tiêu
chính của giao thức này đó là tập trung việc quan sát môi trường có hiệu quả bằng
một số các nút cảm biến riêng biệt trong toàn bộ mạng. Nguyên lý của giao thức này
đó là sự thích ứng về tài nguyên và sắp xếp dữ liệu. Ý nghĩa của việc đàm phán dữ
liệu (data negotiation) này là các nút trong SPIN sẽ biết về nội dung của dữ liệu trước
khi bất kỳ dữ liệu nào được truyền trong mạng. Nơi nhận dữ liệu quan tâm đến nội
dung dữ liệu bằng cách gửi yêu cầu để lấy được dữ liệu quảng bá. Điều này tạo ra sự
sắp xếp dữ liệu để đảm bảo rằng dữ liệu chỉ được truyền đến nút dữ liệu này. Do đó
mà loại trừ khả năng bản tin kép và giảm thiểu đáng kể việc truyền dữ liệu dư thừa
qua mạng. Việc sử dụng bộ miêu tả dữ liệu cũng loại trừ khả năng chồng chất vì các
nút có thể chỉ giới hạn về loại dữ liệu mà chúng quan tâm đến. Mỗi nút có thể dò tìm
tới bộ quản lý để theo dõi mức tiêu thụ năng lượng của mình trước khi truyền hoặc
xử lý dữ liệu. Khi mức năng lượng còn lại thấp các nút này có thể giảm hoặc loại bỏ
một số hoạt động như là truyền thông tin dữ liệu hoặc các gói. Chính việc thích nghi
với tài nguyên làm tăng thời gian sống của mạng.
Tuy nhiên giao thức SPIN cũng có hạn chế khi mà nút trung gian không quan tâm
đến dữ liệu nào đó, khi đó dữ liệu không thể đến được đích.
2.2.3.2 Truyền tin trực tiếp (Directed Diffusion)
Đây là giao thức trung tâm vào dữ liệu [58], [59] đối với việc truyền và phân bổ
thông tin trong mạng cảm biến không dây. Mục tiêu chính là tiết kiệm năng lượng để
tăng thời gian sống của mạng để đạt được mục tiêu này, giao thức này giữ tương tác
giữa các nút cảm biến, dựa vào việc trao đổi các bản tin, định vị trong vùng lân cận
mạng. Sử dụng sự tương tác về vị trí nhận thấy có tập hợp tối thiểu các đường truyền
dẫn. Đặc điểm duy nhất của giao thức này là sự kết hợp với khả năng của nút để có
thể tập trung dữ liệu đáp ứng truy vấn của sink để tiết kiệm năng lượng.
Thành phần chính của giao thức này bao gồm 4 thành phần: interest (thông tin
yêu cầu), data message (các bản tin dữ liệu), gradient, reinforcements. Directed
disffusion sử dụng mô hình publish- and subcribe trong đó một người kiểm tra (tại
sink) sẽ miêu tả mối quan tâm (interest) bằng một cặp thuộc tính-giá trị.
2.2.4 Giao thức dựa trên vị trí (Location-based protocols)
Hầu hết các giao thức định tuyến cho mạng cảm ứng đều yêu cầu thông tin về
vị trí của các nút cảm biến, để có thể tính toán khoảng cách giữa hai nút xác định, từ
37
đó có thể ước lượng được năng lượng cần thiết [60]. Vì mạng cảm biến không có chế
độ địa chỉ nào như địa chỉ IP và chúng được triển khai trong không gian ở một vùng
nào đó, vì vậy thông tin về vị trí cần phải được sử dụng trong các dữ liệu định tuyến
theo cách hiệu quả về mặt năng lượng.
2.2.4.1 GAF (Geographic adaptive fidelity)
GAF[61], [62] dự trữ năng lượng bằng cách tắt các nút không cần thiết trong
mạng mà không ảnh hưởng đến mức độ chính xác của định tuyến. Nó tạo ra một lưới
ảo cho vùng bao phủ. Mỗi nút dùng hệ thống định vị toàn cầu (GPS - Global
Poisitioning System) của nó, xác định vị trí để kết hợp với một điểm trên lưới được
gọi là tương đương khi tính đến việc định tuyến gói, để giữ các nút định vị trong vùng
lưới xác định ở trạng thái nghỉ để tiết kiệm năng lượng. Vì vậy GAF có thể tăng đáng
kể thời gian sống của mạng cảm biến khi mà số lượng các nút tăng lên. Ví dụ được
đưa ra ở hình 2.6, nút 1 có thể truyền đến bất kì nút nào trong số các nút 2, 3 và 4 và
các nút 2, 3, 4 có thể truyền tới nút 5. Do đó các nút 2, 3, và 4 là tương đương và 2
trong số 3 nút đó có thể ở trạng thái nghỉ.
Hình 2-5: Ví dụ về lưới ảo trong GAF
Các nút chuyển trạng thái từ nghỉ sang hoạt động lần lượt để cho các tải được
cân bằng. Có ba trạng thái được định nghĩa trong GAF, đó là phát hiện (discovery)
để xác định các nút lân cận trong lưới, hoạt động (active) thể hiện sự tham gia vào
quá trình định tuyến và nghỉ (sleep) khi sóng được tắt đi. Sự chuyển trạng thái trong
GAF (hình 2.5). Để điều khiển độ di động, mỗi nút trong lưới ước đoán thời gian rời
khỏi lưới của nó và gửi thông tin này đến nút lân cận. Các nút đang không hoạt động
điều chỉnh thời gian nghỉ của chúng cho phù hợp để có thể nhận được các thông tin
từ các nút lân cận, để định tuyến được chính xác. Trước khi thời gian rời khỏi lưới
của các nút đang hoạt động quá hạn, các nút đang nghỉ thoát khỏi trạng thái đó và
38
một trong số các nút đó hoạt động trở lại. GAF được triển khai cho cả những mạng
bao gồm các nút không di động (GAF cơ bản) và mạng bao gồm các nút di động
(GAF thích ứng di động).
GAF giữ mạng hoạt động bằng cách giữ cho các nút đại diện luôn ở chế độ hoạt
động trong mỗi vùng ở lưới ảo của nó. Mặc dù GAF là một giao thức dựa trên vị trí,
nó cũng có thể được coi là như một giao thức phân cấp khi mà các cụm dựa trên vị
trí địa lý. Đối với mỗi vùng lưới xác định, mỗi nút đại điện hoạt động như một nút
chủ để truyền dữ liệu đến các nút khác. Tuy nhiên nút chủ này không thực hiện bất
cứ một nhiệm vụ hợp nhất hay tập trung dữ liệu nào như trong các giao thức phân cấp
thông thường.
Hình 2-6: Sự chuyển trạng thái trong GAF
2.2.4.2 GEAR (Geographic and Energy-Aware Routing)
Giao thức GEAR (Geographic and Energy-Aware Routing) [61] dùng sự nhận
biết về năng lượng và các phương pháp thông báo thông tin về địa lý tới các nút lân
cận. Việc định tuyến thông tin theo vùng địa lý rất có ích trong các hệ thống xác định
vị trí, đặc biệt là trong mạng cảm biến. Ý tưởng này hạn chế số lượng các yêu cầu ở
Directed Diffusion bằng cách quan tâm đến một vùng xác định hơn là gửi các yêu
cầu tới toàn mạng. GEAR cải tiến hơn Directed Diffusion ở điểm này và vì thế dự trữ
được nhiều năng lượng hơn.
Trong giao thức GEAR, mỗi một nút giữ một chi phí ước tính (estimated cost)
và một chi phí học (learned cost) trong quá trình đến đích qua các nút lân cận. Chi
phí ước tính là sự kết hợp của năng lượng còn dư và khoảng cách đến đích. Chi phí
học là sự cải tiến của chi phí ước tính giải thích cho việc định tuyến xung quanh các
hốc trong mạng. Hốc xảy ra khi mà một nút không có bất kì một nút lân cận nào gần
hơn so với vùng đích hơn là chính nó. Trong trường hợp không có một hốc nào thì
39
chi phí ước tính bằng với chi phí học được. Chi phí học được được truyền ngược lại
1 hop mỗi lần một gói đến đích làm cho việc thiết lập đường cho gói tiếp theo được
điều chỉnh.
Có 2 giai đoạn trong giải thuật này:
• Chuyển tiếp gói đến vùng đích: GEAR dùng cách tự chọn nút lân cận dựa trên
sự nhận biết về năng lượng và vị trí địa lý để định tuyến gói đến vùng đích. Có
2 trường hợp cần quan tâm:
o Khi tồn tại nhiều nút lân cận gần hơn so với đích: GEAR sẽ chọn hop
tiếp theo trong số tất cả các nút lân cận gần đích hơn.
o Khi mà tất cả các nút đều xa hơn: trong trường hợp này sẽ có một lỗ
hổng. GEAR chọn hop tiếp theo mà làm tối thiểu giá chi phí của nút lân
cận này. Trong trường hợp này, một trong số các nút lân cận được chọn
để chuyển tiếp gói dựa trên chi phí học được. Lựa chọn này có thể được
cập nhật sau theo sự hội tụ của chi phí học được trong suốt quá trình
truyền gói.
• Chuyển tiếp gói trong vùng: Nếu gói được chuyển đến vùng, nó có thể truyền
dữ liệu trong vùng đó bằng cách chuyển tiếp địa lý đệ quy. Ở những mạng có
mật độ cảm biến cao, người ta chia thành 4 vùng nhỏ và tạo ra 4 bản copy của
gói đó. Quá trình chuyển tiếp và chia nhỏ này được tiếp tục cho đến khi trong
vùng chỉ còn 1 nút.
Để thỏa mãn các điều kiện, dùng giải thuật chuyển tiếp địa lý đệ qui để truyền
gói trong vùng này. Tuy nhiên, với những vùng mật độ thấp, chuyển tiếp địa lý đệ
quy đôi khi không hoàn thành, định tuyến vô tác dụng trong một vùng đích rỗng trước
khi số hop gói đi qua vượt quá giới hạn.
2.2.5 Thuật toán phân cụm và A-Sao với logic mờ
CAF (Cluster Algorithm and A-Star with Fuzzy Approach)” [63], được đề
xuất với một phương thức định tuyến mới trong mạng cảm biến không dây để mở
rộng tuổi thọ mạng sử dụng sự kết hợp của một thuật toán phân cụm, một tiếp cận mờ
và một phương thức A-sao. Đầu tiên, mạng cảm biến không dây được phân vào các
cụm sử dụng phương thức Stable Election Protocol (SEP). Tiếp theo, kết hợp phương
thức tiếp cận mờ và thuật toán A-sao được đề nghị dựa trên các yếu tố như năng lượng
còn lại, bước nhảy tối thiểu và lưu lượng của các nút.
40
Các tác giả đề xuất phương pháp định tuyến CAF sử dụng phương thức SEP,
logic mờ và thuật toán A-Sao. Đề xuất chọn nút tối ưu để xây dựng cây đa chặng
bằng cách xem xét 3 tiêu chí định tuyến: mức năng lượng còn lại cao nhất, số bước
nhảy tối thiểu và số lưu lượng thấp nhất.
Đối với các giao thức đồng nhất Dutts R [64] đã kết hợp các giao thức đồng
nhất LEACH với thuật toán FCM tạo ra một giao thức mới LAUCF, nó đã chứng
minh được việc tiết kiệm năng lượng và kéo dài tuổi thọ sống cho mạng cảm biến,
điều này được tác giả chứng minh khi so sánh LAUCF với LEACH. Với SEP là một
giao thức không đồng nhất trong WSN, nó làm tăng thời gian ổn định của mạng. Tuy
nhiên việc lựa chọn CH trong giao thức SEP tồn tại một nhược điểm đó là việc lựa
chọn các CH từ hai loại nút Advance và Normal là không linh động, do đó các nút ở
xa sẽ bị chết đầu tiên. CHEF là một cơ chế lựa chọn trưởng cụm cục bộ sử dụng logic
mờ [65]. CHEF xác định một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến tuổi thọ mạng. Như
những nhân tố này, CHEF áp dụng hệ thống suy luận mờ FIS vào cơ chế bầu chọn
trưởng cụm cục bộ mà sink không cần phải thu thập thông tin từ tất cả các nút. Bằng
cách sử dụng logic mờ, chi phí tính toán được giảm và tuổi thọ mạng được mở rộng.
Ngoài ra, hoạt động của cơ chế này được cục bộ hóa, sink không chọn các CH, các
nút cảm biến chỉ bầu chọn các trưởng cụm bằng cách sử dụng logic mờ.
2.3. Thuật toán tối ưu năng lượng trong mạng không dây không đồng nhất dựa
trên giao thức không đồng nhất DEC
2.3.1 Giới thiệu
Dựa trên các thuật toán phân cụm trong WSN không đồng nhất hiện có, việc
xây dựng một thuật toán định tuyến mới dựa trên các giao thức [51], [53], [54] vẫn
dựa trên tỉ lệ giữa mức năng lượng còn lại của nút và năng lượng trung bình của
toàn mạng trong vòng hiện tại của từng loại nút không đồng nhất để xây dựng xác
suất cho việc lựa chọn một nút trở thành CH đã được nghiên cứu. Tuy nhiên giao
thức cải tiến này sẽ bổ sung thêm thành phần ước lượng khoảng cách vào trong xác
suất lựa chọn CH cũng như bổ sung thêm thành phần ước lượng năng lượng còn lại
vào trong việc xác định ngưỡng cho một nút trong quá trình phân cụm. Mục tiêu
chính của giao thức này là giảm tổng tiêu thụ năng lượng trong mạng và kéo dài tuổi
thọ mạng. Cải tiến này đã được chấp nhận trên tạp chí với tiêu “Improving
Distributed Energy Efficient Clustering Algorithm to Save Lifetime for
41
Heterogeneous WSN”, International Journal of Computer Networks &
Communications (IJCNC)”
2.3.2 Quá trình phân cụm
Trước hết, xét về mức độ không đồng nhất trong mạng thì giao thức đề xuất sẽ
giữ ở mức độ 4, bao gồm 4 loại nút normal, advance, super, ultra-super với 4 mức
năng lượng khởi tạo khác nhau giống như giao thức của nhóm tác giả đã trình bày
nhưng thay vào đó giao thức đề xuất sẽ cải tiến ngưỡng hình thành cụm cũng như bổ
sung thành phần ước lượng khoảng cách vào trong quá trình tính toán xác suất của
việc lựa chọn CH.
Tương tự như các giao thức trên, mỗi nút sẽ chọn 1 số ngẫu nhiên trong khoảng
(0,1). Nếu số này thấp hơn giá trị ngưỡng của nút si thì nút đó sẽ trở thành một CH.
Dựa trên giao thức của nhóm tác giả [53], [54] đưa ra để đưa vào giao thức cải
tiến nhằm cải thiện ngưỡng Ts của các giao thức dựa trên WSN không đồng nhất đã
xây dựng trước đây với mong muốn là những nút có mức năng lượng còn lại cao hơn
sẽ có nhiều cơ hội trở thành CH hơn bằng cách thêm vào thành phần ước lượng năng
lượng còn lại của một nút si, dựa trên tỉ lệ (
𝐸𝑖
𝐸0
). Công thức (2.1) sẽ được xây dựng lại
trong công thức (2.18)
(2.18) Công thức tính ngưỡng cho lựa chọn CH của giao thức đề xuất
Trong đó Ei là năng lượng còn lại của nút si ở vòng hiện tại và Eo là năng lượng
ban đầu của nút normal. Với Pi được định nghĩa riêng cho từng loại nút tùy theo mức
độ không đồng nhất, ở đây là 4.
Xác suất cho việc lựa chọn CH được sửa đổi trong giao thức đề xuất bằng cách
đưa vào thành phần ước lượng khoảng cách. Giả sử ta có dhiện tại là đoạn đường
thực tế từ nút thứ i đến SINK. Khi đó ta có:
(2.19) Công thức tính khoảng cách của nút hiện tại đến SINK
Trong đó 𝑑ℎ𝑖ệ𝑛 𝑡ạ𝑖: Khoảng cách hiện tại từ nút thứ i tới Sink.
(𝑋𝑖 , 𝑌𝑖): Tọa độ nút i.
𝑇(𝑠𝑖) = {
𝑃
1−𝑃𝑖 × [𝑟 𝑚𝑜𝑑
1
𝑃𝑖
]
×
𝐸𝑖
𝐸0
, 𝑖𝑓 𝑠 ∈ 𝐺
0 , 𝑜𝑡ℎ𝑒𝑟𝑤𝑖𝑠𝑒
(2.18)
𝑑ℎ𝑖ệ𝑛 𝑡ạ𝑖 = √(𝑋𝑖 − 𝑋𝐵𝑆)2 + (𝑌𝑖 − 𝑌𝐵𝑆)2 (2.19)
42
(𝑋𝐵𝑆, 𝑌𝐵𝑆): Tọa độ trạm gốc.
Mặt khác ta lấy dtrung bình là đoạn đường trung bình từ một nút bất kỳ đến Sink,
dtoCH là khoảng cách trung bình từ CH đến các nút thành viên trong cụm và dtoSINK
là khoảng cách trung bình của các CH đến Sink. dtoCH và dtoSINK được xây dựng
trong công thức (2.20).
Nếu khoảng cách hiện tại dhiện tại <= dtrung bình
Thì xác suất lựa chọn một nút trở thành CH sẽ được tính theo công thức
Nếu 𝐸𝑖(𝑟) > 𝑇𝑎𝑏𝑠𝑜𝑙𝑢𝑡𝑒 , thì
(2.21) Công thức tính xác suất cải tiến khi dhiện tại <= dtrung bình với điều kiện Ei(r)
> Tabsolute trong giao thức đề xuất
Nếu 𝐸𝑖(𝑟) ≤ 𝑇𝑎𝑏𝑠𝑜𝑙𝑢𝑡𝑒 , Thì
𝑃(𝑖)𝑐ả𝑖 𝑡𝑖ế𝑛 = 𝑐.
𝑃𝑜𝑝𝑡 .(1+𝑢).𝐸𝑖(𝑟)
1+𝑚(𝑎+ 𝑚0(−𝑎+𝑏+𝑚1(−𝑏+𝑢)))).E̅(𝑟)
∗
𝑑ℎ𝑖ệ𝑛 𝑡ạ𝑖
𝑑𝑡𝑟𝑢𝑛𝑔 𝑏ì𝑛ℎ
𝑐ℎ𝑜 𝑡ấ𝑡 𝑐ả 𝑐á𝑐 𝑛𝑜𝑑𝑒
(2.21) Công thức tính xác suất cải tiến khi dhiện tại <= dtrung bình với điều kiện Ei(r)
<= Tabsolute trong giao thức đề xuất
Ngược lại nếu dhiện tại > dtrung bình
Thì xác suất lựa chọn một nút trở thành CH sẽ được tính theo công thức như
[54] cho 4 loại nút không đồng nhất.
Nếu 𝐸𝑖(𝑟) > 𝑇𝑎𝑏𝑠𝑜𝑙𝑢𝑡𝑒 , thì
(3.5)
dtrung bình = dtoBS + dtoCH (2.20)
𝑃(𝑖)𝑐ả𝑖 𝑡𝑖ế𝑛 =
{
𝑃𝑜𝑝𝑡 . 𝐸𝑖(𝑟)
1+𝑚(𝑎+ 𝑚0(−𝑎+𝑏+𝑚1(−𝑏+𝑢)))).E̅(𝑟)
∗
𝑑ℎ𝑖ệ𝑛 𝑡ạ𝑖
𝑑𝑡𝑟𝑢𝑛𝑔 𝑏ì𝑛ℎ
𝑐ℎ𝑜 𝑐á𝑐 𝑛𝑜𝑟𝑚𝑎𝑙 𝑛𝑜𝑑𝑒
𝑃𝑜𝑝𝑡 .(1+𝑎).𝐸𝑖(𝑟)
1+𝑚(𝑎+ 𝑚0(−𝑎+𝑏+𝑚1(−𝑏+𝑢)))).E̅(𝑟)
∗
𝑑ℎ𝑖ệ𝑛 𝑡ạ𝑖
𝑑𝑡𝑟𝑢𝑛𝑔 𝑏ì𝑛ℎ
𝑐ℎ𝑜 𝑐á𝑐 𝑎𝑑𝑣𝑎𝑛𝑐𝑒 𝑛𝑜𝑑𝑒
𝑃𝑜𝑝𝑡 .(1+𝑏).𝐸𝑖(𝑟)
1+𝑚(𝑎+ 𝑚0(−𝑎+𝑏+𝑚1(−𝑏+𝑢)))).E̅(𝑟)
∗
𝑑ℎ𝑖ệ𝑛 𝑡ạ𝑖
𝑑𝑡𝑟𝑢𝑛𝑔 𝑏ì𝑛ℎ
𝑐ℎ𝑜 𝑐á𝑐 𝑠𝑢𝑝𝑒𝑟 𝑛𝑜𝑑𝑒
𝑃𝑜𝑝𝑡 .(1+𝑢).𝐸𝑖(𝑟)
1+𝑚(𝑎+ 𝑚0(−𝑎+𝑏+𝑚1(−𝑏+𝑢)))).E̅(𝑟)
∗
𝑑ℎ𝑖ệ𝑛 𝑡ạ𝑖
𝑑𝑡𝑟𝑢𝑛𝑔 𝑏ì𝑛ℎ
𝑐ℎ𝑜 𝑐á𝑐 𝑢𝑙𝑡𝑟𝑎 − 𝑠𝑢𝑝𝑒𝑟 𝑛𝑜𝑑𝑒
(2.21)
𝑃(𝑖) =
{
𝑃𝑜𝑝𝑡 . 𝐸𝑖(𝑟)
1+𝑚(𝑎+ 𝑚0(−𝑎+𝑏+𝑚1(−𝑏+𝑢)))).E̅(𝑟)
𝑐ℎ𝑜 𝑐á𝑐 𝑛𝑜𝑟𝑚𝑎𝑙 𝑛𝑜𝑑𝑒
𝑃𝑜𝑝𝑡 .(1+𝑎).𝐸𝑖(𝑟)
1+𝑚(𝑎+ 𝑚0(−𝑎+𝑏+𝑚1(−𝑏+𝑢)))).E̅(𝑟)
𝑐ℎ𝑜 𝑐á𝑐 𝑎𝑑𝑣𝑎𝑛𝑐𝑒 𝑛𝑜𝑑𝑒
𝑃𝑜𝑝𝑡 .(1+𝑏).𝐸𝑖(𝑟)
1+𝑚(𝑎+ 𝑚0(−𝑎+𝑏+𝑚1(−𝑏+𝑢)))).E̅(𝑟)
𝑐ℎ𝑜 𝑐á𝑐 𝑠𝑢𝑝𝑒𝑟 𝑛𝑜𝑑𝑒
𝑃𝑜𝑝𝑡 .(1+𝑢).𝐸𝑖(𝑟)
1+𝑚(𝑎+ 𝑚0(−𝑎+𝑏+𝑚1(−𝑏+𝑢)))).E̅(𝑟)
𝑐ℎ𝑜 𝑐á𝑐 𝑢𝑙𝑡𝑟𝑎 − 𝑠𝑢𝑝𝑒𝑟 𝑛𝑜𝑑𝑒
(2.22)
43
(2.22) Công thức tính xác suất khi dhiện tại > dtrung bình với điều kiện Ei(r) > Tabsolute
trong giao thức đề xuất
Nếu 𝐸𝑖(𝑟) ≤ 𝑇𝑎𝑏𝑠𝑜𝑙𝑢𝑡𝑒 , thì
(2.23) Công thức tính xác suất khi dhiện tại > dtrung bình với điều kiện Ei(r) <=
Tabsolute trong giao thức đề xuất
Với 𝑇𝑎𝑏𝑠𝑜𝑙𝑢𝑡𝑒 = 𝑧. 𝐸𝑜 [43]
2.3.3 Hoạt động của giao thức đề xuất
Bước 1: Tính toán năng lượng hiện tại của nút mạng thứ i (Ei), năng lượng của
vòng hiện tại (Er) theo công thức (2.10) và khoảng cách trung bình của một nút
bất kỳ đến Sink (dtrung bình) theo công thức (2.20).
Bước 2: Ước lượng năng lượng trung bình của toàn mạng ở vòng hiện tại theo
công thức 2.7
Bước 3: Xem xét nếu dhiện tại <= dtrung bình thì xác suất lựa chọn CH P(i) sẽ được tính
theo công thức (2.21) (nếu 𝐸𝑖(𝑟) > 𝑇𝑎𝑏𝑠𝑜𝑙𝑢𝑡𝑒) hoặc (2.22) (nếu 𝐸𝑖(𝑟) ≤
𝑇𝑎𝑏𝑠𝑜𝑙𝑢𝑡𝑒).
Ngược lại nếu dhiện tại > dtrung bình thì xác suất P(i) sẽ được tính theo công thức (2.23)
(nếu 𝐸𝑖(𝑟) > 𝑇𝑎𝑏𝑠𝑜𝑙𝑢𝑡𝑒 ,) hoặc (nếu 𝐸𝑖(𝑟) ≤ 𝑇𝑎𝑏𝑠𝑜𝑙𝑢𝑡𝑒).
Bước 4: Xét nút được lựa chọn làm CH đã là CH chưa. Nếu chưa thì sẽ chọn nút
này làm CH cho vòng tiếp theo và chuyển đến bước 5, ngược lại nếu nút được lựa
chọn đã làm CH trong vòng trước đó rồi thì sẽ trở thành nút thành viên cho cụm
và kết thúc quá trình lựa chọn CH.
Bước 5: Chọn một số ngẫu nhiên từ 0 đến 1. Sau đó so sánh số này với giá trị
ngưỡng 𝑇𝑠𝑖 (𝑇𝑠𝑖 dựa trên công thức cải tiến (2.18). Nếu số ngẫu nhiên <= 𝑇𝑠𝑖 thì
sẽ chọn nút thứ i làm CH sau đó kết thúc quá trình chọn CH, ngược lại nếu số
ngẫu nhiên >𝑇𝑠𝑖 thì nút i sẽ trở thành nút thành viên cho cụm và kết thúc quá trình
lựa chọn CH.
Dựa vào sơ đồ do nhóm tác giả [39], [66] đưa ra. Thuật toán được tiến hành xây
dựng với sơ đồ cải tiến như sau:
𝑃(𝑖) = 𝑐.
𝑃𝑜𝑝𝑡 .(1+𝑢).𝐸𝑖(𝑟)
1+𝑚(𝑎+ 𝑚0(−𝑎+𝑏+𝑚1(−𝑏+𝑢)))).E̅(𝑟)
𝑐ℎ𝑜 𝑡ấ𝑡 𝑐ả 𝑐á𝑐 𝑛𝑜𝑑𝑒 (2.23)
44
Hình 2-7 Sơ đồ khối cho các giao thức EDEEC, EDDEEC, BEENISH, Giao thức
đề xuất trong quá trình lựa chọn CH
Thuật toán trên đã tiến hành mô phỏng và so sánh kết quả với các giao thức
khác trên phần mềm mô phỏng MATLAB R2015a.
45
2.3.4 Đánh giá giải pháp
2.3.4.1 Mô hình mạng
Việc đánh giá kết quả của thuật toán sử dụng chương trình Matlab dựa trên mô
hìnFile đính kèm:
luan_an_dinh_tuyen_tiet_kiem_nang_luong_tieu_thu_trong_mang.pdf
LA_PHAN THI THE_TT.pdf
PHANTHITHE_E.pdf
PHANTHITHE_V.pdf

