Luận án Nghiên cứu phân lập và tác dụng điều trị bệnh đái tháo đường type 2 của các hoạt chất sinh học từ một số loài thực vật thu hái tại miền Trung

Luận án Nghiên cứu phân lập và tác dụng điều trị bệnh đái tháo đường type 2 của các hoạt chất sinh học từ một số loài thực vật thu hái tại miền Trung trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu phân lập và tác dụng điều trị bệnh đái tháo đường type 2 của các hoạt chất sinh học từ một số loài thực vật thu hái tại miền Trung trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu phân lập và tác dụng điều trị bệnh đái tháo đường type 2 của các hoạt chất sinh học từ một số loài thực vật thu hái tại miền Trung trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu phân lập và tác dụng điều trị bệnh đái tháo đường type 2 của các hoạt chất sinh học từ một số loài thực vật thu hái tại miền Trung trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu phân lập và tác dụng điều trị bệnh đái tháo đường type 2 của các hoạt chất sinh học từ một số loài thực vật thu hái tại miền Trung trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu phân lập và tác dụng điều trị bệnh đái tháo đường type 2 của các hoạt chất sinh học từ một số loài thực vật thu hái tại miền Trung trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu phân lập và tác dụng điều trị bệnh đái tháo đường type 2 của các hoạt chất sinh học từ một số loài thực vật thu hái tại miền Trung trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu phân lập và tác dụng điều trị bệnh đái tháo đường type 2 của các hoạt chất sinh học từ một số loài thực vật thu hái tại miền Trung trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu phân lập và tác dụng điều trị bệnh đái tháo đường type 2 của các hoạt chất sinh học từ một số loài thực vật thu hái tại miền Trung trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu phân lập và tác dụng điều trị bệnh đái tháo đường type 2 của các hoạt chất sinh học từ một số loài thực vật thu hái tại miền Trung trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 196 trang Hà Tiên 25/03/2024 1370
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu phân lập và tác dụng điều trị bệnh đái tháo đường type 2 của các hoạt chất sinh học từ một số loài thực vật thu hái tại miền Trung", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu phân lập và tác dụng điều trị bệnh đái tháo đường type 2 của các hoạt chất sinh học từ một số loài thực vật thu hái tại miền Trung

Luận án Nghiên cứu phân lập và tác dụng điều trị bệnh đái tháo đường type 2 của các hoạt chất sinh học từ một số loài thực vật thu hái tại miền Trung
 COSY; HMBC. 
+ Phổ HMQC (Heteronuclear Multiple Quantum Coherence): các tương tác trực 
tiếp H-C được xác định nhờ vào các tương tác trên phổ này. 
+ Phổ HMBC (Heteronuclear Multiple Bond Connectivity): Đây là phổ biểu 
diễn các tương tác xa của H và C trong phân tử, cho thông tin về tương quan hai, ba 
và đôi khi bốn nối giữa proton và cacbon. 
+ Phổ 1H-1H COSY (1H- 1H Chemical Shift Correlation Spectroscopy): phổ này 
cho thông tin về các tương tác H-H, chủ yếu của các proton đính với cacbon liền kề 
nhau. Nhờ vào phổ này mà các phần của phân tử được nối ghép lại với nhau [16]. 
2.3.11. Xử lý số liệu 
 Kết quả được biểu diễn dưới dạng XTB ± SE (XTB: giá trị trung bình của từng 
lô, SE: sai số chuẩn). Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS (Version 22) với test thống 
kê paired samples T-Test để so sánh sự khác nhau giữa hai nhóm và test thống kê 
ANOVA để so sánh sự khác biệt giữa các thời điểm khác nhau trong cùng một nhóm 
và giữa các nhóm tại cùng thời điểm. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05, 
sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê khi p > 0,05. 
66 
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Kết quả tách chiết mẫu 
Sau khi tham khảo tài liệu trong và ngoài nước cũng như kinh nghiệm dân gian, 
chúng tôi đã quyết định chọn ra các mẫu thực vật được dự đoán là có khả năng hạ 
đường huyết để làm đối tượng nghiên cứu. Kết quả tách chiết mẫu thực vật được trình 
bày ở bảng 3.1. 
Bảng 3.1. Kết quả tách chiết các mẫu thực vật 
STT Mẫu thực vật 
Khối lượng mẫu 
khô (g) 
Khối lượng cao 
(g) 
Phần trăm hàm 
lượng cao (%) 
1 Chè dây 250 65 26,00 
2 Cao vằng 320 73 22,81 
3 Lá nếp 400 62 15,50 
4 Quả chuối hột 287 58 20,21 
5 Tầm bóp 310 56 18,06 
6 Lá đu đủ 345 82 23,77 
7 Hạt đu đủ 400 37 9,25 
8 Quả sung 395 54 13,67 
9 Ké đầu ngựa 338 64 18,93 
10 Nở ngày đất 365 59 16,16 
11 Râu bắp 390 60 15,38 
12 Lá đắng 400 48 12,00 
13 Lá sa kê 345 52 15,07 
14 Giảo cổ lam 367 57 15,53 
15 Dây thìa canh 380 93 24,47 
16 Lá sen 348 82 23,56 
17 Lá lược vàng 400 45 11,25 
18 Quế 387 52 13,44 
19 Lá húng quế 393 73 18,58 
20 Cây cỏ ngọt 355 59 16,62 
67 
Các mẫu tươi như lá đắng, lá nếp, lá đu đủ, hạt đu đủ, quả sung, râu bắp, lá sa kê, 
lá sen, lá lược vàng, lá húng quế, quả chuối hột, tầm bóp chúng tôi thu thập khoảng 2 
kg/mẫu, đối với các mẫu khô chúng tôi thu thập khoảng 300 g/mẫu, các mẫu được sấy 
ở 60°C và được xay nhỏ và ngâm với cồn 70°. Quá trình cô đặc và sấy khô dịch chiết 
được tiến hành trong thiết bị cô quay dưới áp suất giảm ở nhiệt độ không quá 60°C. 
Qua bảng 3.1 cho thấy các mẫu thực vật khác nhau cho phần trăm hàm lượng 
cao khác nhau. Lá chè dây và dây thìa canh cho phần trăm hàm lượng cao khá cao 
tương ứng là 26,00% và 24,47%. Lược vàng và hạt đu đủ có phần trăm hàm lượng 
cao tương đối thấp lần lượt là và 11,25% và 9,25%. 
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng cồn 70° để tiến hành chiết xuất các 
mẫu thực vật là do một số nguyên nhân sau: 
- Trong dân gian thường ngâm chiết các thảo dược trong cồn. 
- Cồn và nước là môi trường dễ dàng hòa tan các hợp chất sinh hoc. 
- Độc tính đối với người sử dụng tương đối thấp. 
- Giá cả và nguồn cung cấp hoàn toàn phù hợp. 
3.2. Kết quả gây chuột nhắt ĐTĐ type 2 thực nghiệm 
3.2.1. Gây chuột nhắt béo phì 
 Sau 8 tuần chuột ở nhóm nuôi béo (HFD) đã thể hiện sự khác biệt rõ rệt về 
trọng lượng so với nhóm đối chứng (ND), kết quả được thể hiện trong bảng 3.2. 
Bảng 3.2. Trọng lượng của chuột sau 8 tuần nuôi 
Thời gian 
Nhóm 
Tuần 0 Tuần 8 Độ tăng (%) 
HFĐ 20,69 ± 0,36 60,42 ± 1,03*# 192,03 
ND 21,31 ± 0,39 38,95 ± 0,68* 82,78 
Ghi chú: *p < 0,01 (p so với thời điểm trước khi ăn béo của cùng nhóm), #p < 
0,01 (p so với nhóm ND ở cùng thời điểm khảo sát) 
Qua bảng số liệu có thể thấy sự thay đổi trọng lượng cơ thể chuột sau 8 tuần nuôi, 
chúng tôi nhận thấy đối với nhóm chuột được nuôi với chế độ ăn giàu chất béo (HFD) 
có trọng lượng trung bình là 60,42 g, trọng lượng cơ thể chuột tăng lên gấp 3 lần so 
với ban đầu (20,69 g) và tăng gần gấp đôi so với nhóm chuột ăn thức ăn tiêu chuẩn 
68 
(ND) ở cùng thời điểm (38,95 g). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê trong cùng 
nhóm chuột ở thời điểm khác nhau, giữa nhóm HFD và ND vào thời điểm tuần thứ 
8 (p < 0,01). Điều đó cho thấy chế độ dinh dưỡng đã ảnh hưởng rất lớn đến trọng 
lượng của chuột và chúng tôi đã bước đầu thành công trong việc gây chuột nhắt béo 
phì. 
 A. Chuột ND; B. Chuột HFD 
Hình 3.1. Chuột sau 8 tuần nuôi 
3.2.2. Các chỉ số mỡ máu ở chuột nhắt béo phì 
Rối loạn lipid máu là một trong những nguyên nhân chính gây nên tình trạng 
kháng insulin, tế bào β của đảo tụy tăng tiết insulin, làm suy giảm chức năng của 
tuyến tụy gây nên bệnh tiền ĐTĐ và ĐTĐ type 2 [114]. 
Vào thời điểm tuần thứ 8, chúng tôi chọn ngẫu nhiên ở mỗi nhóm 8 con chuột, 
cho nhịn đói 12 giờ, sau đó lấy máu làm xét nghiệm xác định các chỉ số mỡ máu: 
cholesterol toàn phần và triglyceride. Kết quả được trình bày ở bảng 3.3. 
Bảng 3.3. Sự khác biệt về các chỉ số mỡ máu chuột ở nhóm ND và HFD 
Nhóm chuột 
Chỉ số 
ND (mmol/l) HFD (mmol/l) 
Độ tăng (%) của 
HFD so với ND 
Cholesterol toàn phần 2,11 ± 0,14 4,10 ± 0,05* 94,31 
Triglyceride 1,28 ± 0,14 3,33 ± 0,24* 160,16 
Ghi chú: * p < 0,01 (p so với nhóm ND ở cùng thời điểm) 
Kết quả ghi nhận ở bảng 3.3 cho thấy, các chỉ số mỡ máu của lô chuột HFD tăng 
69 
cao đáng kể và có ý nghĩa thống kê khi so với lô chuột ND (p < 0,01). Chỉ số cholesterol 
toàn phần của nhóm HFD tăng cao (94,31%). Tương tự, chỉ số triglyceride của nhóm 
HFD tăng mạnh với mức tăng là 160,16%. Như vậy, có thể kết luận với chế độ ăn giàu 
chất béo đã ảnh hưởng lớn đến các chỉ số mỡ máu của nhóm chuột HFD. 
3.2.3. Gây ĐTĐ type 2 trên chuột béo sau tiêm STZ 
Sau 8 tuần, các lô chuột được tiêm STZ liều duy nhất 120 mg/kg thể trọng. 
Nồng độ glucose huyết của các lô chuột được đo ở các thời điểm 0 giờ, 48 giờ, 72 
giờ, 7 ngày, 10 ngày và kết quả được thể hiện trong hình 3.2 dưới đây. 
Hình 3.2. Sự thay đổi nồng độ đường huyết của các lô chuột ở các thời điểm 
 khác nhau 
Ghi chú: *p < 0,01 (p so với nhóm tiêm đệm ở cùng thời điểm) 
 **p < 0,05 (p so với nhóm ND + đệm) 
 #p < 0,01 (p so với nhóm ND + STZ ở cùng thời điểm) 
Qua hình 3.2 ta có thể thấy rằng ở tại thời điểm 0 giờ, nồng độ đường huyết của 
nhóm chuột HFD + đệm cao hơn so với nhóm chuột ND + đệm, cụ thể là: 
6,55 mmol/l và 5,48 mmol/l, sự khác biệt này hoàn toàn có ý nghĩa thống kê với 
p < 0,05. Sau 10 ngày tiêm, ở lô ND + đệm và HFD + đệm không có sự thay đổi đáng 
kể về nồng độ đường huyết ở cùng một nhóm qua các thời điểm (p> 0,05). Ở lô ND 
+ STZ sau khi tiêm, nồng độ đường huyết tăng và đạt cao nhất ở thời điểm 72 h (13,72 
mmol/l), sau đó giảm dần ở ngày thứ 7 và 10, tương ứng là 8,18 và 
7,20 mmol/l. Trong khi đó nồng độ đường huyết ở lô HFD + STZ ở các thời điểm 
0.00
5.00
10.00
15.00
20.00
25.00
0 giờ 48 giờ 72 giờ 7ngày 10 ngày
N
ồ
n
g
 đ
ộ
 đ
ư
ờ
n
g
 h
u
y
ết
(m
m
o
/l
) ND + Đệm
ND + STZ
HFD + Đệm
HFD + STZ
** **
*
*
*
*
*#
*#
70 
tương ứng là rất cao, chuột HFD sau khi tiêm STZ lần lượt là: 18,14; 20,49 và 
22,00 mmol/l, sự khác biệt này hoàn toàn có ý nghĩa thống kê khi so sánh với nhóm 
chuột ND + STZ ở cùng thời điểm (p < 0,01). Như vậy, nhóm HFD + STZ ở thời 
điểm 10 ngày đã có biểu hiện của bệnh ĐTĐ khi so sánh với nhóm chuột không bị 
ĐTĐ còn lại (ND + đệm, ND + STZ và HFD + đệm) sự khác biệt này hoàn toàn có ý 
nghĩa thống kê (p < 0,01). 
Như vậy, chúng tôi đã thành công trong việc gây chuột béo ĐTĐ sau khi tiêm 
STZ với liều 120 mg/kg thể trọng (HFD + STZ). Để giải thích cho việc nhóm chuột 
ND + STZ sau khi tiêm STZ đã không bị ĐTĐ, chúng tôi cho rằng với liều tiêm 120 
mg/kg thể trọng là chưa đủ để gây ĐTĐ cho nhóm chuột ND + STZ vì giống chuột 
này có mức độ nhạy cảm với STZ là thấp hơn nhiều so với các giống chuột khác [64]. 
Trong nghiên cứu này, sau 48 h chuột ND + STZ bị ĐTĐ là do STZ đã làm phá hủy 
các tế bào β tuyến tụy, insulin tiết không đủ đáp ứng nhu cầu của cơ thể làm hệ thống 
điều hòa đường huyết bị rối loạn, đường huyết tăng cao ở nhóm chuột ND + STZ, tuy 
nhiên nhóm chuột ND + STZ sau đó có khả năng tự phục hồi và dần tăng tiết insulin, 
hệ thống thăng bằng đường huyết hoạt động có hiệu quả trở lại, mức đường huyết trở 
về gần mức bình thường. Trong khi đó, nhóm chuột HFD + STZ với chế độ ăn giàu 
chất béo trong thời gian dài là một trong những nguyên nhân chính gây nên tình trạng 
kháng insulin, kết hợp với việc tiêm STZ làm cho tế bào β của đảo tụy bị tổn thương 
nên đường huyết của nhóm chuột này luôn ở mức cao và duy trì ổn định qua các thời 
điểm khác nhau. 
3.2.4. Định lượng insulin trong máu chuột nhắt sau khi tiêm STZ 
* Kết quả định lượng insulin huyết tương 
Bên cạnh đo nồng độ đường huyết của chuột nhắt béo phì, để xác định chuột nhắt 
béo phì có bị bệnh ĐTĐ type 2 cần phải định lượng insulin trong máu chuột nhắt béo sau 
khi tiêm STZ. Nồng độ insulin được xác định thông qua đường chuẩn insulin hình 2.6. 
Kết quả nồng độ insulin huyết tương của các lô chuột được trình bày trong hình 3.3. 
71 
Hình 3.3. Nồng độ insulin huyết tương của các lô chuột khác nhau 
Dựa vào hình 3.3. chúng tôi nhận thấy rằng chuột HFD + STZ có nồng độ insulin 
ở mức bình thường (18,84 µIU/ml) so với các lô chuột đối chứng ND, ND + STZ và 
HFD (21,10; 27,32 và 27,53 µIU/ml ), sự khác biệt hoàn toàn không có ý nghĩa thống 
kê với p > 0,05. Như vậy, tuy nhóm chuột HFD + STZ có nồng độ đường huyết cao 
(22,00 mmol/l) nhưng nồng độ insulin vẫn duy trì ở mức bình thường, điều này cho 
thấy nhóm chuột HFD + STZ có thể là nhóm chuột ĐTĐ type 2. Theo Sawant và 
cộng sự các con chuột có nồng độ đường huyết ≥ 300 mg/dl và nồng độ insulin nằm 
trong khoảng 12,41 - 49,65 µIU/ml được xem là chuột ĐTĐ type 2 [137]. Nếu xét 
theo điều kiện trên, chúng tôi đã gây được 18/20 con chuột ĐTĐ type 2. Tỷ lệ gây 
chuột ĐTĐ type 2 là 90%, tương đương với tỷ lệ của tác giả Sawant và cộng sự. Vậy 
chúng tôi đã ứng dụng thành công mô hình này. 
3.2.5. Nghiệm pháp dung nạp glucose 
Nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống có khả năng đánh giá sử dụng 
glucose. Nghiệm pháp này được sử dụng để chẩn đoán tiền ĐTĐ và bệnh ĐTĐ. 
Chúng tôi đã tiến hành đánh giá khả năng dung nạp glucose của các lô chuột vào thời 
điểm ngày thứ 10 sau khi tiêm STZ. Kết quả được trình bày ở hình 3.4. 
21.1
27.32 27.53
18.84
0
5
10
15
20
25
30
ND ND + STZ HFD HFD+STZ
N
ồ
n
g
 đ
ộ
 i
n
su
li
n
 (
µ
IU
/m
l)
Nồng độ insulin
72 
Hình 3.4. Khả năng dung nạp glucose của các lô chuột 
Ghi chú: * p < 0,05 (p so với thời điểm trước khi uống đường của cùng nhóm) 
 Tại thời điểm 1 giờ sau khi uống dung dịch đường glucose, đường huyết của 
tất cả các nhóm đều tăng, tăng nhiều nhất là nhóm chuột ĐTĐ type 2 (29,24 mmol/l), 
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê khi so với thời điểm 0 h trong cùng một nhóm. 
Sau 2 giờ, đường huyết của nhóm chuột ĐTĐ type 2 (HFD + STZ) vẫn duy trì ở mức 
cao (28,04 mmol/l) so với thời điểm 0 giờ, và không sự khác biệt so với thời điểm 1 
giờ. Trong khi đó đường huyết của các nhóm chuột còn lại gần như đã quay về mức 
đường huyết lúc ban đầu (p > 0,05). Như vậy có thể kết luận khả năng dung nạp 
glucose của chuột ĐTĐ type 2 là giảm so với 3 lô đối chứng còn lại. 
3.3. Kết quả tác dụng hạ đường huyết của các cao chiết thực vật trên chuột 
ĐTĐ type 2 
3.3.1. Sàng lọc đợt I 
Kết quả thực nghiệm được đánh giá thông qua sự thay đổi nồng độ đường huyết 
của chuột ĐTĐ type 2 uống cao chiết mẫu thử với liều 500 mg/kg/ngày so sánh với 
lô đối chứng là chuột ĐTĐ type 2 cho uống nước cất, thể hiện ở hình 3.5. 
22
29.24
28.04
7.67
10.23
8.2
6.75
9.62
7.52
5.55 6.17 5.58
0
5
10
15
20
25
30
35
0 giờ 1 giờ 2 giờ
N
ồ
n
g
 đ
ộ
 đ
ư
ờ
n
g
 h
u
y
ết
(m
m
o
l/
l)
 HDF + STZ
HDF + đệm
ND + STZ
ND + đệm
*
*
*
*
*
73 
Hình 3.5. Đường huyết của chuột ĐTĐ type 2 sau 21 ngày điều trị 
bằng cao chiết thực vật 
Ghi chú:* p < 0,05; ** p < 0,01 (p so với lô đối chứng cùng thời điểm) 
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, cao chiết chè dây và cao chiết quả chuối hột 
làm giảm nồng độ đường huyết đáng kể ở thời điểm ngày thứ 21 khi so với nhóm đối 
chứng (p ≤ 0,01). Trong đó chuột uống cao chiết mẫu chè dây và quả chuối hột đường 
huyết giảm lần lượt là 56,60% và 45,84%. Cụ thể nồng độ đường huyết của nhóm 
chuột ĐTĐ type 2 cho uống cao chiết lá chè dây giảm từ 20,14 xuống còn 8,74 
mmol/l và củ chuối hột từ 21,16 xuống còn 11,73 mmol/l. Như vậy, sau khi chuột 
ĐTĐ cho uống lá chè dây và quả chuối hột nồng độ đường huyết đã giảm đáng kể 
tuy chưa thể về mức bình thường (khoảng 5,5-6 mmo/l). 
Trong nhân dân, người ta thường dùng chuối hột chữa được nhiều bệnh như sỏi 
thận, hắc lào, sốt cao và dùng để điều trị bệnh ĐTĐ. Nhóm tác giả Đỗ Quốc Việt đã 
nghiên cứu sơ bộ tác dụng hạ đường huyết của quả chuối hột trên chuột ĐTĐ, kết 
quả cho thấy hoạt chất cyclomusalenon tách chiết bằng cồn với liều tiêm 300 mg/kg 
thể hiện hoạt tính hạ đường huyết tới 55% [24]. Trên thế giới, các nghiên cứu trước 
đây đã chứng minh hoạt tính chống tăng đường huyết của vỏ các loài chuối hột khác 
nhau [110]. Borah và cộng sự đã chứng minh rằng trong khi uống cao chiết bằng 
cồn từ hoa và bắp chuối của M. balbisiana (250 mg/kg) trong 2 tuần làm giảm đáng 
kể lượng đường trong máu (giảm 56,77 và 51,94%) [46]. 
19.35 20.14
21.66 20.9 20.73 20.8
29.1
8.74
11.73
16.49
24.93
28.9
0
5
10
15
20
25
30
35
ĐC Chè dây Chuối hột Tầm bóp Lá nếp Chè vằng
N
ồ
n
g
 đ
ộ
 đ
ư
ờ
n
g
 h
u
y
ết
 (
m
m
o
l/
l)
0 giờ
21 ngày
**
**
*
74 
Không có nghiên cứu nào trước đây ở Việt Nam và trên thế giới chứng minh 
về tác dụng của chè dây trong việc điều trị cho bệnh ĐTĐ. Các nghiên cứu trước 
đây cho thấy rằng, chè dây là nguồn thực vật giàu flavonoid và nhóm các hợp chất 
này được xem là có lợi trong điều trị ĐTĐ [165]. Nghiên cứu của nhóm tác giả 
Phạm Thanh Kỳ đã xác định được các hoạt chất: myricetine và dihydromyricetin 
cũng như chứng minh tác dụng chống oxy hóa và điều trị viêm loét dạ dày tá tràng 
của chè dây [13]. Các nghiên cứu trên thế giới chỉ ra rằng chè dây có tác dụng chống 
viêm, gây độc tế bào ung thư [146], [144]. 
Đối với các mẫu thực vật khác, cao chiết quả tầm bóp cho thấy tác dụng hạ 
đường huyết so với nhóm đối chứng tuy nhiên chưa cao, chuột sau 21 ngày điều trị 
có nồng độ đường huyết còn khá cao (16,49 mmol/l) (p < 0,05). Các mẫu thực vật 
còn lại là lá nếp và chè vằng không có tác dụng hạ đường huyết khi so sánh với mẫu 
đối chứng (p > 0,05). 
3.3.2. Sàng lọc đợt II 
Hình 3.6. Đường huyết của chuột ĐTĐ type 2 sau 21 ngày điều trị 
bằng cao chiết thực vật 
Ghi chú: * p <0,05; ** p < 0,01 (p so với lô đối chứng cùng thời điểm) 
Từ hình 3.6 có thể thấy, chuột bị bệnh ĐTĐ type 2 ở lô đối chứng chỉ cho uống 
nước cất thì sau 21 ngày nồng độ đường huyết không giảm, thậm chí còn tăng. Trong 
số 5 mẫu cao chiết thực vật khác nhau được thử nghiệm khả năng hạ đường huyết chỉ 
có mẫu cao lá đu đủ, hạt đu đủ vào cao quả sung thể hiện hoạt tính hạ đường huyết, 
21.27 21.84 21.01 21.4 20.94
21.96
28.4
10.4 9.84
27.23
0
17.09
0
5
10
15
20
25
30
ĐC Lá đu đủ Hạt đu 
đủ 
Ké đầu 
ngựa 
Nở ngày 
đất 
Quả sung 
N
ồ
n
g
 đ
ộ
 đ
ư
ờ
n
g
 h
u
y
ết
 (
m
m
o
l/
l)
0 giờ
21 ngày
**
*
**
75 
trong đó cao lá đu đủ và hạt đu đủ thể hiện hoạt tính tốt nhất: chuột uống cao lá đu 
đủ đường huyết tại thời điểm ngày thứ 21 giảm 47,62%, chuột uống cao hạt đu đủ 
giảm 53,18% so với thời điểm 0 h. 
Ở Việt Nam chưa có các nghiên cứu về tác dụng hạ đường huyết của lá và hạt đu 
đủ (Carica papaya) trên mô hình chuột ĐTĐ thực nghiệm. Trong khi đó, Juárez-Rojop 
và cộng sự đã chỉ ra rằng cao chiết nước của đu đủ (0,75 và 1,5 g/100 ml) làm giảm đáng 
kể lượng đường trong máu, nó cũng làm giảm nồng độ cholesterol, triacylglycerol, có 
thể giúp tái tạo tiểu đảo tuỵ và ngăn chặn sự tích tụ glycogen và chất béo [91]. 
Đối với cao chiết ké đầu ngựa không có tác dụng hạ đường huyết, thậm chí nồng 
độ đường huyết còn cao hơn so với thời điểm ban đầu. Đặc biệt đối với nhóm cho 
uống cao chiết nở ngày đất chuột bị chết dần ở thời điểm 8 ngày, do chuột chán ăn và 
đi kèm các biến chứng nặng nề khác. 
3.3.3. Sàng lọc đợt III 
Với 5 mẫu nghiên cứu tiếp theo chúng tôi đã nhận thấy rằng khả năng hạ đường 
huyết đáng kể của cao chiết lá dây thìa canh, thân và lá cỏ ngọt (p < 0,01). Chuột 
uống dây thìa canh đường huyết giảm 61,08%, chuột uống cỏ ngọt đường huyết giảm 
54,93%. Tác dụng hạ đường huyết của hai mẫu thực vật này là khá tốt, chuột sau khi 
được điều trị hoàn toàn khỏe mạnh, tăng cân. 
Hình 3.7. Đường huyết của chuột ĐTĐ type 2 sau 21 ngày điều trị 
bằng cao chiết thực vật 
Ghi chú: * p < 0,01 (p so với lô đối chứng ở cùng thời điểm) 
Dây thìa canh được đã được nghiên cứu về hoạt tính hạ đường huyết cả trong 
19.38 20.3 20.19
21.1
18.87
20.6
25.97
8.59 9.1
18.91
25.6
28.8
0
5
10
15
20
25
30
35
ĐC Dây thìa
canh
Cỏ ngọt Quế Húng 
quế
Râu bắp
N
ồ
n
g
 đ
ộ
 đ
ư
ờ
n
g
 h
u
y
ết
 (
m
m
o
l/
l)
0 giờ
21 ngày**
76 
nước và trên thế giới [19], [32]. Nhóm nghiên cứu Trần Văn Ơn đã sử dụng chuột 
bình thường và chuột tăng đường huyết bởi STZ để cho uống dịch chiết thìa canh 
trong một thời gian ngắn (tính theo giờ), trong khi đó, chúng tôi đã thử nghiệm trên 
chuột nhắt ĐTĐ type 2, trong 21 ngày và thấy rằng cao chiết dây thìa canh có tác 
dụng hạ đường huyết ổn định trong thời gian đã nghiên cứu. Ở Việt Nam hiện nay 
dây thìa canh được sử dụng như một loại thực phẩm chức năng được sử dụng trong 
việc hỗ trợ điều trị bệnh ĐTĐ. Hơn nữa, các tác giả trên thế giới đã nghiên cứu tương 
đối đầy đủ cả về hoạt tính hạ đường huyết, thành phần hóa học cũng như cơ chế tác 
dụng của dây thìa canh như ức chế hấp thu glucose qua thành ruột, giảm đáng kể hàm 
lượng cholesterol và triglyceride, kích thích tiết insulin đảo tụy in vitro và in vivo 
[32], [68]. Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết của cỏ ngọt ở Việt Nam còn rất hạn 
chế, tuy nhiên có rất nhiều nghiên cứu trên thế giới chứng minh được hoạt tính sinh 
học cũng như thành phần hoá học của cỏ ngọt. Shivanna và cộng sự đã chỉ ra rằng cỏ 
ngọt có khả năng làm giảm nồng độ đường huyết (66,09%) và glycohemoglobin 
(5,32%) đáng kể, trong khi insulin (17,82 μIU/ml) và mức glycogen gan (45,02 mg/g) 
được cải thiện đáng kể ở chuột ĐTĐ [140]. Ba steviol glycoside, stevioside, 
rebaudioside A và rebaudioside C đã được phân lập và xác định cấu trúc từ cao chiết 
lá của cỏ ngọt. Từ đó tìm hiểu về cơ chế hạ đường huyết của chúng, cho thấy steviol 
glycoside có đặc tính hoạt động bắt chước insulin và chống oxy hóa, điều này đã 
khẳng định vai trò có lợi của chúng trong việc điều trị bệnh ĐTĐ và trong việc duy 
trì sức khỏe [81], [124]. 
3.3.4. Sàng lọc đợt IV 
Các kết quả trình bày trong hình 3.8 cho thấy khả năng hạ đường huyết của các 
5 mẫu thực vật trong đợt sàng lọc cuối cùng. 
77 
Hình 3.8. Đường huyết của chuột ĐTĐ type 2 sau 21 ngày điều trị 
bằng cao chiết thực vật 
Ghi chú: * p < 0,01 (p so với lô đối chứng ở cùng thời điểm) 
Trong số 5 mẫu cao chiết đem sàng lọc chỉ có mẫu cao chiết giảo cổ lam và lá 
đắng cho thấy khả năng hạ đường huyết đáng kể ở chuột ĐTĐ type 2. Chuột sau khi 
uống giảo cổ lam đường huyết giảm 58,86% và lá đắng giảm 56,21%. Trong khi đó 
chuột uống cao chiết lá sen có tác dụng thay đổi nồng độ đường huyết nhưng không 
ổn định, mang tính ngẫu nhiên không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Lược vàng và 
lá sa kê không có khả năng hạ đường huyết thậm chí đường huyết còn tăng so với 
thời điểm ban đầu. 
Tại Việt Nam, kết quả nghiên cứu về khả năng hạ đường huyết của lá đắng trên 
mô hình chuột ĐTĐ type 2 được thực hiện 

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_phan_lap_va_tac_dung_dieu_tri_benh_dai_th.pdf
  • pdf0. Phụ lục Bìa luận án.pdf
  • pdf2. Tóm tắt tiếng Việt.pdf
  • pdf3. Tóm tắt tiếng Anh.pdf
  • pdf4. Thông tin đóng góp mới tiếng Việt.pdf
  • pdf5. Thông tin đóng góp mới tiếng Anh.pdf
  • pdf6. Trích yếu luận án tiếng Việt.pdf
  • pdf7. Trích yếu luận án tiếng Anh.pdf