Luận án Nghiên cứu ứng xử của liên kết sàn bê tông cốt thép với cột ống thép nhồi bê tông
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu ứng xử của liên kết sàn bê tông cốt thép với cột ống thép nhồi bê tông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu ứng xử của liên kết sàn bê tông cốt thép với cột ống thép nhồi bê tông
50 kN xảy ra sự phá hoại. Vùng vết nứt phá hoại xảy ra tại chu vi bên ngoài shear-head vết nứt cắt phát triển từ vùng nén (mặt dưới sàn) nghiêng góc θ = 200 ÷ 450 đến vùng kéo của sàn (mặt trên sàn) như Hình 2.35 đến Hình 2.37, bê tông bề mặt sàn vỡ ra và tách hai phần sàn thành tháp chọc thủng, cùng lúc sàn bị đẩy lên giống như một cái nấm. Tiếp tục tăng tải thấy chuyển vị của cột tăng rất nhanh tháp chọc thủng được nâng dần lên khỏi mặt sàn, trong khi tải trọng quay chiều giảm nhanh, chứng tỏ liên kết cột với sàn không còn chịu tải nữa, sàn bị phá hoại hoàn toàn; Hình 2.30. Ứng xử tại mặt trên của sàn ở thời điểm phá hoại Hình 2.31. Phá hoại bê tông tại mặt dưới của sàn Bê tông tại mặt dưới của sàn (bê tông vùng nén) tại vị trí mặt cột không bị phá hoại, trong khi đó bê tông tại đỉnh của shear-head bị ép vỡ và rơi ra ngoài. Như vậy, phá hoại cuối cùng quan sát được sau thí nghiệm là phá hoại cắt thủng với tải trọng lớn nhất P = 1250 kN. Đầu mút shear-head 67 Từ thí nghiệm liên kết cột CFST- sàn phẳng bê tông cốt thép, sau khi mẫu phá hoại, tiếp tục tăng tải trọng để tách tháp phá hoại ra khỏi phần bê tông còn lại như Hình 2.32. Quan sát tháp phá hoại thủng ta thấy hai trường hợp phá hoại như sau: Hình 2.32. Tháp phá hoại cắt thủng của sàn Trường hợp phá hoại 1: Tháp cắt thủng được quan sát trực tiếp sau khi tách ra khỏi phần sàn còn lại. Chu vi bên dưới của tháp cắt thủng xuất phát từ chân của các cốt đai tại đỉnh của shear-head và từ chân cốt đai thứ 3 theo phương xiên của sàn (Hình 2.33). Tại mặt trên của sàn, các vết nứt nghiêng được sự hỗ trợ của lưới thép sàn phát triển ra đến vùng gối tựa Hình 2.34. Góc nghiêng của mặt phá hoại từ chu vi bên dưới đến mặt trên của sàn đo được tại đỉnh của shear-head trung bình θ = 200 và theo phương xiên của sàn là θ = 220. Như vậy, mặt phá hoại trong trường hợp này chỉ cắt qua bê tông và nằm ngoài vùng bố trí cốt đai. Hình 2.33. Mặt phá hoại được giữ bởi cốt đai Thực hiện đo đạc kích thước mặt trên, mặt dưới của tháp cắt thủng xác định được vị trí trung bình của các vết nứt nghiêng. Tại đầu shear-head giá trị trung bình 68 từ lớp cốt đai ngoài cùng đến chu vi trung bình của tháp cắt thủng là 202,5mm tức là cách mặt cột trung bình khoảng 677,5mm. Trong khi đó theo phương xiên giá trị này là 200mm và cách góc cột 645mm. Chu vi trung bình của mặt cắt thủng đo được là 0. 5209 test out b mm như Hình 2.34. Hình 2.34. Vết nứt bề mặt sàn và chu vi trung bình của tháp cắt thủng cho trường hợp phá hoại 1 (mặt phá hoại nằm bên ngoài vùng bố trí cốt đai) Trường hợp phá hoại 2: Quan sát chi tiết trên bề mặt của tháp cắt thủng cho thấy có rất nhiều vết nứt nghiêng với bề rộng, chiều dài và góc nghiêng khác nhau, trong đó có một vết nứt nghiêng có bề rộng vết nứt lớn nhất được xem là vết nứt chủ đạo (Hình 2.33) có xu hướng tách bê tông sàn thành hai khối. Tuy nhiên, vì sự có mặt của hệ cốt đai nên khối bê tông này được giữ lại phía trên tháp cắt thủng. Thực hiện tách các khối bê tông được giới hạn bởi các vết nứt chủ đạo ta được hình dạng mặt cắt thủng có đặc điểm như sau: Tại đầu shear-head mặt phá hoại xuất phát từ cánh dưới của shear-head cắt ngang qua vị trí giữa của 4 cốt đai và hướng đến mặt trên của sàn với góc nghiêng khoảng = 450 (Hình 2.35). Trong khi đó theo phương xiên của sàn mặt cắt thủng bắt đầu từ chân cốt đai thứ hai ở góc của cột và cắt qua giữa các cốt đai bên ngoài, góc nghiêng trung bình của mặt phá hoại là = 300 (Hình 2.36). Các mặt phá hoại này kết nối với nhau tạo ra một bề mặt không đối xứng được giới hạn bởi một hình bát giác ở mặt trên và một đa giác ở mặt dưới cùng của sàn như Hình 2.37. Đo đạc trực tiếp chu vi mặt trên và mặt dưới Chu vi beân döôí cuûa thaùp caét thuûng b =5209mm o,out 225 175 185 17 52 0 0 225 22 5 2 0 0 test C h u v i tr u n g b ìn h C h u v i m a ët tr e ân c u ûa th a ùp c a ét th u ûn g 69 của tháp cắt thủng xác định được chu vi trung bình của mặt phá hoại với chiều dài , 3862mm test o in b như Hình 2.38. Hình 2.35. Mặt phá hoại sau khi tách khối bê tông tại đỉnh shear-head Hình 2.36. Mặt phá hoại sau khi tách khối bê tông theo phương xiên của sàn Hình 2.37. Tháp phá hoại cắt thủng khi tách các khối bê tông bị giữ bởi cốt đai 70 Hình 2.38. Hình dạng mặt trên của tháp cắt thủng và chu vi trung bình của tháp cắt thủng cho trường hợp phá hoại 2 (mặt phá hoại cắt qua vùng bố trí cốt đai) Kết quả thí nghiệm đã chỉ ra sự phụ thuộc giữa vết nứt tiếp tuyến tại mặt trên của sàn và chiều dài nhúng của shear-head (lv =400mm). Tỉ số giữa chiều dài vết nứt tiếp tuyến lcr (khoảng cách từ mặt cột đến vết nứt cắt thủng tại vị trí giao nhau với cốt thép chịu uốn của sàn) với chiều dài shear-head lv trung bình 1,312 và 1,06 lần lượt theo phương vuông góc và xiên góc với mặt cột, tương ứng với khoảng cách trung bình 3,49d và 2,82d (d là chiều cao làm việc của sàn), giá trị này cao hơn các vết nứt tiếp tuyến được nhìn thấy trong sàn BTCT thường là (1-2)d. Điều này đã chỉ ra rằng sự có mặt của shear-head đã chuyển bề mặt phá hoại ra xa khỏi mặt cột. Như vậy, qua phân tích mô hình phá hoại từ thực nghiệm cho thấy các vết nứt nghiêng hình thành và phát triển đầu tiên trong vùng bố trí cốt đai. Tuy nhiên, do sự có mặt của hệ cốt đai đã kìm hãm sự phát triển, mở rộng của vết nứt và nâng cao sức kháng cắt trên tiết diện nghiêng có cốt đai cắt qua. Lúc đó, sự phá hoại sẽ chuyển sang cho những vết nứt nghiêng còn lại có khả năng chịu cắt bé hơn (trong thí nghiệm này thì mặt phá hoại được chuyển ra khỏi vùng bố trí cốt đai, nơi chỉ có bê tông tham gia chịu cắt). Kết quả thí nghiệm đã chỉ ra sự phụ thuộc cao của mặt phá hoại cắt thủng với chiều dài nhúng của shear-head và hệ cốt đai, lúc đó khả năng chịu cắt của sàn được xác định trên tiết diện nghiêng có sức kháng cắt nhỏ hơn trong các tiết diện nghiêng được xem xét. 3 0 0 4 0 0 4 0 0 7 5 75 7 5 50 b =3862mm o,in test C h u v i tr u n g b ìn h c u ûa t h a ùp c a ét t h u ûn g Chu vi beân döôí cuûa thaùp caét thuûng C h u v i m a ët tr e ân c u ûa th a ùp c a ét th u ûn g 71 Hình 2.39 là đồ thị quan hệ tải trọng và chuyển vị đứng của cột, chuyển vị đầu cột ghi lại từ 2 LVDT tại các vị trí khác nhau cho kết quả giống nhau và giá trị tải trọng lớn nhất đạt được là P =1250 kN tương ứng với chuyển vị đứng là δ = 54mm. Hình 2.39. Đồ thị tải trọng – chuyển vị đứng đầu cột Hình 2.40 là kết quả nhận được từ chuyển vị của các LVDT trên mặt sàn theo các phương vuông góc với mặt cột và phương xiên của sàn. Giá trị cho thấy phản ứng của sàn là giống nhau, không có sự khác biệt về ngăn cản chuyển vị của sàn trong vùng bê tông có và không có chứa shear-head. Hình 2.40. Đồ thị tải trọng – chuyển vị mặt sàn Đồ thị Hình 2.41 cho thấy quy luật biến dạng của bê tông tại mặt dưới của sàn (bê tông trong vùng nén) là giống nhau theo hai phương vuông góc và xiên so với 72 mặt cột, biến dạng nén tăng dần rồi sau đó đảo chiều giảm và có thể chuyển thành biến dạng kéo và biến dạng của bê tông theo phương vuông góc với mặt cột lớn hơn so với phương xiên. Biến dạng nén lớn nhất ở gần mặt cột và giảm dần khi ra xa khỏi cột. Giá trị biến dạng nén lớn nhất ở vị trí gần mặt cột khoảng ε = 0,75‰ nhỏ hơn so với biến dạng tới hạn của bê tông vùng nén ε = 2‰. Nên mặt dưới bê tông không bị phá hoại tại cuối quá trình thí nghiệm. Hình 2.41. Đồ thị tải trọng - biến dạng bê tông mặt dưới của sàn Biến dạng tại cánh trên của shear-head tương đối phức tạp (Hình 2.42), quy luật phân bố không rõ ràng. Biến dạng lớn nhất đo được là ε =1,05‰ ứng với ứng suất trong cốt thép là σ = 220,5 MPa nhỏ hơn giới hạn chảy của thép shear-head, kết quả này giống với thí nghiệm [16]. Hình 2.42. Tải trọng – biến dạng tại cánh trên của shear-head 73 Với cốt thép dọc, biến dạng trong cốt thép dọc đạt giới hạn chảy dẻo sớm tại vị trí gần mặt cột (SL1, SL6) với biến dạng ε = 2,5‰ 3‰, ứng với ứng suất trong cốt thép σ = 577,5 MPa tại cấp tải khoảng 450 kN – 600 kN. Tại đầu mút của shear- head trong khi biến dạng cốt thép xuyên cột (SL2) đạt trạng thái dẻo ở giai đoạn phá hoại thì cốt thép không neo qua cột (SL5) chỉ đạt một nửa biến dạng. Hình 2.43. Tải trọng – biến dạng trong cốt thép dọc Tải trọng – biến dạng trong cốt thép đai: Nhìn chung hầu hết các cốt đai đều làm việc và đạt trạng thái chảy dẻo. Đồ thị ở Hình 2.44 cho thấy giai đoạn ban đầu đến vết nứt tiếp tuyến đầu tiên ở cấp tải P = 630 kN các cốt đai biến dạng rất ít và phát triển một cách tuyến tính, sau cấp tải này vết nứt nghiêng do lực cắt mở rộng nên biến dạng cốt đai tăng nhanh và đạt giới hạn chảy của cốt thép ở mức biến dạng ε = 2,15‰ tương ứng giới hạn chảy của cốt thép đai 10 (fy = 454 MPa). Hình 2.44. Tải trọng – biến dạng trong cốt thép đai 74 Đối với cốt thép vòng, kết quả thí nghiệm cho thấy biến dạng của cốt thép vòng rất lớn và đều đạt giới hạn chảy của cốt thép. Biến dạng dẻo của các cốt vòng ở gần cột xảy ra sớm hơn và có giá trị lớn hơn so với các cốt thép vòng ở xa cột. Hình 2.45. Tải trọng – biến dạng trong cốt thép vòng Đánh giá những ưu điểm của giải pháp cấu tạo và ứng xử của liên kết so với các nghiên cứu trước. Qua chương trình thí nghiệm liên kết cột ống thép nhồi bê tông với sàn phẳng bê tông cốt thép cho thấy: Giải pháp liên kết sử dụng shear-head từ mô hình thí nghiệm minh chứng rõ cho việc mở rộng liên kết dễ dàng cũng như tính thẩm mỹ so với việc sử dụng tấm thép đỡ với các sườn gia cường [52], [30], [3] hay các stud hàn vào mặt cột [57]. Việc cấu tạo shear-head với phần bụng được ngàm vào cột và hàn tại mặt cột, cùng với tấm thép liên tục kết nối shear-head và hàn theo chu vi cột đảm bảo chiều dài và phân bố đều đường hàn từ shear-head vào cột góp phần nâng cao độ an toàn của liên kết so với [35], [32], [55]. Giải pháp đảm bảo tính liên tục cho cơ chế truyền tải từ sàn vào cột với tấm thép liên tục bao quanh chu vi cột. Các nghiên cứu của [35], [32], [55] chỉ sử dụng các thép hình và không có tấm thép liên tục hàn vào mặt dưới của shear-head như liên kết đề xuất. Như đã phân tích, tải trọng từ sàn truyền vào cột được thực hiện qua cơ chế chuyển lực từ thanh chống được hỗ trợ từ gối tựa. Với thép hình H thì cánh dưới của nó được xem là gối tựa, do đó tải trọng có xu hướng chuyển từ sàn về 75 cánh dưới bởi các thanh chống nghiêng và sự phá hoại sẽ xảy ra xung quanh thép hình. Bên cạnh đó, tại khu vực góc của cột sự bổ sung tấm thép liên tục sẽ tạo gối đỡ để tiếp nhận tải trọng từ phần bê tông sàn tại góc vào cột. Với cách bố trí như vậy tải trọng trên sàn truyền vào cột sẽ đều hơn. Hiểu rõ cơ chế truyền tải này và để cho sự phá hoại không xảy ra trong khu vực bố trí shear-head đảm bảo cho nó làm việc như mũ cột lớn, hệ cốt đai được bố trí vào khu vực này để ngăn sự phá hoại cắt trong khu vực này đồng thời đẩy chu vi phá hoại ra ngoài vùng bố trí shear-head nhằm nâng cao khả năng chịu cắt thủng cho sàn. Điều này cho thấy, sự kết hợp của từng chi tiết trên đã tạo ra giải pháp liên kết hoàn chỉnh hơn so với các nghiên cứu đã đề cập chỉ sử dụng mỗi shear-head không có tấm thép liên tục và cốt đai. Quan sát mặt phá hoại của sàn từ các thí nghiệm sử dụng thép hình H trên Hình 2.46, minh chứng rõ vai trò gối tựa của tấm thép liên tục cho cơ chế chuyển lực tại phạm vi góc của cột và sự có mặt của hệ cốt đai ngăn cản vết nứt nghiêng tại góc cột. a) Ứng xử phá hoại tại góc của cột với liên kết đề xuất b) Liên kết của C.H. Lee [35] c) Liên kết của J.W. Kim [32] Hình 2.46. Ứng xử phá hoại tại góc của cột so sánh với các nghiên cứu khác 76 Cốt đai dạng C: So với mẫu thí nghiệm của [16] sử dụng các stud gia cường, thì giải pháp sử dụng cốt đai là cốt thép thanh sẵn có sẽ linh hoạt cho thi công và tiết kiệm hơn so với sử dụng stud. Bên cạnh đó, cách bố trí cốt đai như mẫu thí nghiệm cho phép hiểu rõ hơn cơ chế phá hoại cuối cùng. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng mô hình phá hoại khi thiết kế để từ đó có cách bố trí cốt đai gia cường hợp lý giúp kết cấu làm việc hiệu quả hơn. Cốt thép vòng: Trong liên kết có sử dụng hệ cốt thép vòng, bố trí tại mặt trên của sàn trong vùng bố trí shear-head, đây là chi tiết khác biệt so với các liên kết khác. Như đã biết, dưới tác dụng của tải trọng bề mặt trên của sàn có xu hướng giãn ra gây ứng suất kéo trong bê tông gây ra các vết nứt. Vùng phá hoại đầu tiên là khu vực xung quanh cột, với việc bố trí cốt vòng vào khu vực đầu cột, nó sẽ tiếp nhận các ứng suất kéo này (kết quả thí nghiệm tất cả các cốt thép vòng đều đạt trạng thái chảy dẻo) và hạn chế sự phát triển vết nứt, kìm hãm sự phá hoại bê tông trong vùng liên kết. Bề mặt sàn trên Hình 2.46 cho thấy được sự toàn vẹn của bê tông vùng liên kết của mẫu thí nghiệm đề xuất so với các mặt phá hoại của các nghiên cứu khác. Như vậy, với sự kết hợp của shear-head, tấm thép liên tục, cốt thép đai, cốt thép vòng trong liên kết đề xuất đã khắc phục các tồn tại của giải pháp liên kết sử dụng shear-head hiện có, đồng thời tạo ra sự toàn vẹn cho vùng liên kết và xem nó hoạt động như mũ cột lớn như kết cấu sàn nấm. 2.2. Giải pháp cấu tạo và thực nghiệm liên kết cột giữa ống thép nhồi bê tông với sàn phẳng bê tông ứng lực trước Cấu tạo liên kết đề xuất Liên kết cột giữa ống thép nhồi bê tông với sàn phẳng bê tông ứng lực trước có cấu tạo tương tự như liên kết cột ống thép nhồi bê tông với sàn phẳng bê tông cốt thép như Hình 2.9. Thiết kế và chế tạo mẫu thí nghiệm Thiết kế mẫu thí nghiệm: Mẫu thí nghiệm cho liên kết cột giữa ống thép nhồi bê tông với sàn phẳng bê tông ứng lực trước được thiết kế cho hệ sàn có nhịp 9m × 9m, chiều dày sàn hs = 200mm. Các thông số mẫu thí nghiệm được tính toán, thiết 77 kế trong Phụ lục 2. Cấu tạo chi tiết liên kết được tóm tắt như sau: Shear-head: Thép hình số hiệu H100, đoạn vươn tính từ mặt cột L = 400mm, một phần cánh trên và cánh dưới được cắt bỏ chỉ còn phần bụng l = 50mm đưa vào trong lõi cột qua các rãnh trên mặt cột như Hình 2.9. Tiết diện H100 được hàn theo chu vi bên ngoài mặt cột và bố trí lùi xuống phía dưới cách đáy bản sàn 35mm. Tấm thép liên tục: bề rộng b =50mm, chiều dày t = 10mm, được hàn theo chu vi của cột tại cánh dưới của H100. Cốt thép sàn: Cốt thép lớp trên theo hai phương 14a85, ρ = 1,21%, cốt thép lớp dưới chọn cấu tạo 10a85. Theo mỗi phương bố trí 2 cốt thép xuyên cột bởi các lỗ 20 được khoan sẵn trên mặt cột. Các lỗ này nằm khác cao trình trên các mặt cột và đảm bảo khoản cách để không cản trở việc đổ bê tông vào bên trong lòng ống. Cốt thép đai: để đơn giản cho thi công, giải pháp đai được chọn là cốt thép đai một nhánh với hai đầu uốn gập một đoạn ≥ 6đ. Chọn thép đai 10, uốn gập một đoạn 60mm. Lớp cốt đai đầu tiên bố trí cách mặt cột một đoạn d/2 = 75mm, các lớp cốt đai tiếp theo bố trí khoảng ≤ 3d/4 → chọn 100mm, cốt đai bố trí bên hai cánh của H100 một đoạn d/2 = 75mm. Cáp dự ứng lực: Chọn cáp T13 có các đặc trưng sau: Diện tích danh định: Asp = 98,71mm2 Giới hạn bền: fpu = 1860 MPa Giới hạn chảy: fpu = 1670 MPa Mô đun đàn hồi: Esp = 200 GPa Chọn ứng suất căng trước fpi = 0,7fpu = 1300 MPa Chọn lực căng ban đầu : Asp fpi = 98,71×1300 = 128 kN lấy tròn 130 kN Kết quả thiết kế mẫu, chọn 16 cáp bố trí thành 4 bó, mỗi bó 4 sợi cáp theo mỗi phương. Với ứng suất kéo ban đầu 1300 MPa, ứng suất nén trung bình trong sàn là σcp = 3,8 MPa. Cáp bố trí theo quỹ đạo cong. Sử dụng ống gen dẹt loại dùng cho bốn sợi. Ống gen được cắt đủ chiều dài của sàn và bố trí đúng vị trí, quỹ đạo theo thiết kế như Hình 2.47. 78 Hình 2.47. Quỹ đạo bố trí cáp sàn Hình 2.48. Bố trí cáp cho mẫu thí nghiệm Chế tạo mẫu thí nghiệm: Chi tiết liên kết được chế tạo giống với liên kết cột giữa ống thép nhồi bê tông với sàn phẳng bê tông cốt thép như Hình 2.12. Tiến hành đóng ván khuôn, gia công và lắp đặt cốt thép sàn. Trình tự bố trí gồm: cốt thép lớp dưới, bố trí ống gen và đầu neo theo đúng vị trí thiết kế, lắp đặt cốt thép lớp trên và sau cùng là bố trí cốt đai C. Các cốt thép này được buộc thành lưới và thành khối với nhau như Hình 2.49. 2 0 0 4 5 9 0 1 0 8 1 2 7 1 4 5 5 5 9 0 150 1200 150650400 Caùp öùng löïc tröôùcShear-head Coät CFST Taám ñaët taûi 1 0 0 1 0 0 150350350350 2700 650 400 600 400 650 2 7 0 0 6 5 0 4 0 0 6 0 0 4 0 0 6 5 0 Boá trí 4 boù caùp theo moãi phöông. Moãi boù goàm 4 caùp T12 (12,7mm) 79 Hình 2.49. Bố trí cốt thép sàn Sau khi bố trí cốt thép sàn, tiến hành lắp đặt các cảm biến (strain gauges) đo biến dạng cốt thép dọc, cốt đai và shear-head. Thi công đổ bê tông sàn, sử dụng bê tông có cấp bền B30 (M400) với cấp phối cho trong Bảng 2.1. Trong quá trình đổ bê tông sàn, thực hiện đúc các tổ mẫu để thí nghiệm xác định cường độ chịu kéo, chịu nén của bê tông. Bê tông sàn sau khi đổ được dưỡng hộ trong điều kiện phòng thí nghiệm như Hình 2.50. Hình 2.50. Dưỡng hộ bê tông sàn Sau 28 ngày, thực hiện tháo dỡ ván khuôn và tiến hành thi công cáp ứng lực trước theo trình tự như sau: 80 Lắp đặt đầu neo: Vì kích thước sàn nhỏ không có không gian cho việc bố trí đầu neo chết nên hai đầu neo của sàn đều sử dụng đầu neo sống. Cấu tạo hai đầu neo được mô tả như sau: Một đầu neo gồm đế neo được cố định vào thành ván khuôn của sàn theo đúng cao độ và vị trí theo bản vẽ thiết kế. Đuôi của đế neo được nối với ống gen. Tại giao điểm của trục đường cáp và ván khuôn thành, ván khuôn thành phải được đục lỗ để cáp có thể luồn qua được. Trục của đế neo được lắp trùng với trục đường cáp. Tại vị trí liên kết đế neo với ván khuôn và đuôi đế neo với ống gen phải được bịt kín để không cho vữa bê tông chảy vào bên trong ống ghen cũng như đầu neo như Hình 2.51. Hình 2.51. Cấu tạo đầu neo cáp ứng lực trước Đầu neo còn lại không sử dụng đế neo mà được neo bên ngoài. Tại giao điểm của ống gen và ván khuôn thành được đục lỗ để luồng cáp. Tại vị trí giao giữa ống gen và thành ván khuôn được bịt kín để không cho vữa bê tông tràn ra ngoài. Chi tiết bố trí đầu neo như Hình 2.52. Hình 2.52. Cấu tạo đầu neo ngoài của cáp ứng lực trước Kéo cáp ứng lực trước: Khi bê tông đạt cường độ thiết kế, thực hiện kéo cáp. Các thiết bị như kích và đồng hồ đo lực được kiểm định và hiệu chỉnh để đảm bảo độ chính xác. Kích được luồn qua sợi cáp, ép sát vào mặt khoá neo rồi tiến hành kéo 81 căng. Ứng lực trước trong mỗi sợi cáp theo thiết kế là 130 kN. Quá trình kéo cáp được thực hiện như sau: Căng cáp đợt đầu: kéo khử chùng với lực kéo 13 kN (10%Ptk) hồi kích về 0 đánh dấu vị trí đo độ giãn dài của cáp; Kéo cáp với 50% Ptk, hồi kích để đóng neo, dừng lại 5 phút và đo độ dãn dài của cáp. Quá trình kéo thực hiện theo chu vi sàn; Kéo cáp đến 100% Ptk cho tất cả sợi cáp ngay sau khi kết thúc giai đoạn kéo 50% Ptk, tiến hành đo độ giãn dài của cáp. Giá trị lực căng cho một tao cáp trong từng giai đoạn cho trong Bảng 2.5. Bảng 2.5. Giá trị lực căng cáp Quá trình căng cáp Căng 10%Ptk Căng 50%Ptk Căng 100% Ptk P1(kN) P2(kN) Δl2(mm) P3(kN) Δl3(mm) Tính theo lý thuyết 13 65 7,96 130 15,92 Thí nghiệm 13 65 8,80 130 17,55 Trong đó: Pi (kN) – Lực căng một sợi cáp; Δli độ giãn dài của cáp Việc kiểm soát kết quả kéo cáp được thực hiện đồng thời trên đồng hồ đo của máy bơm và độ giãn dài của cáp. Để đảm bảo sự ép chặt của các đầu neo, tất cả các đầu cáp đều được kéo. Nếu tại cấp tải 50%Ptk kéo và đóng neo đầu này thì cấp tải 100%Ptk được kéo và đóng neo ở đầu còn lại. Công tác căng kéo được hoàn thành khi tất cả các sợi cáp được kéo đến lực kéo yêu cầu, độ dãn dài của đường cáp nằm trong giới hạn cho phép là ±10%. Hình 2.53. Thi
File đính kèm:
- luan_an_nghien_cuu_ung_xu_cua_lien_ket_san_be_tong_cot_thep.pdf
- 0. Phu luc bia luan an.pdf
- 2. Tom tat LATS Tieng Viet.pdf
- 3. Tom tat LATS tieng Anh.pdf
- 4. Thong tin dong gop moi tieng Viet.pdf
- 5. Thong tin dong gop moi tieng Anh.pdf
- 6. Trich yeu luan an tieng Viet.pdf
- 7. Trich yeu luan an tieng Anh.pdf