Luận án Quản lý kiến trúc cảnh quan khu phố cổ Hà Nội với sự tham gia của cộng đồng
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Quản lý kiến trúc cảnh quan khu phố cổ Hà Nội với sự tham gia của cộng đồng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Quản lý kiến trúc cảnh quan khu phố cổ Hà Nội với sự tham gia của cộng đồng
CQ vai trò của nhà nước vẫn chiếm ưu thế; Sự TGCĐ chưa phát huy được hiệu quả như mong muốn, đặc biệt những yếu tố tích cực của các thiết chế cộng đồng truyền thống chưa được phát huy. 60 Sự TGCĐ trong quản lý KTCQ đô thị nói chung và KTCQ KPC Hà Nội nói riêng diễn ra ở 3 giai đoạn cơ bản: 1). Lập quy hoạch đô thị; 2). Đầu tư xây dựng, và 3) Khai thác sử dụng. Trong quá trình lập quy hoạch, sự TGCĐ, theo kết quả nghiên cứu của một số nhà khoa học, về lý thuyết thể hiện trách nhiệm cũng như cam kết của người dân, nhằm tăng tính hiệu quả của đồ án. Bởi vì người dân là người thụ hưởng kết quả của dự án và có thể đóng góp nguồn lực của mình cho các hoạt động cộng đồng phục vụ dự án. Và khi cộng đồng được coi trọng thì sự hợp tác với các bên liên quan như chính quyền và đơn vị thiết kế sẽ chặt chẽ và đạt hiệu quả thiết thực hơn. Sự TGCĐ (nói cách khác là sự kết hợp với các nhà quy hoạch, chính quyền và nhà đầu tư) trong quá trình lập đồ án quy hoạch thể hiện qua 4 bước cơ bản trong đó có 2 bước đầu 1- “Chia sẻ thông tin” và 2- “Trao đổi, hội đàm”, nhằm chia sẻ thông tin từ các nhà tư vấn và chính quyền về dự án để cộng đồng dân cư - những người thụ hưởng bàn bạc, có ý kiến phản hồi để các bên liên quan hiểu rõ tình hình và nhu cầu để thực hiện tốt nhất dự án. Bước thứ 3- “Đề ra các quyết định” là hình thức tham gia trực tiếp và hiệu quả nhất của cộng đồng đối với dự án. Bước thứ 4- “Hoạt động khởi xướng” là bước cuối cùng, bản thân cộng đồng cũng có thể đề xuất một dự án phát triển đô thị cụ thể vì lợi ích của cộng đồng. Trường hợp này phù hợp với những dự án quy mô nhỏ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của cộng đồng. Dự án cải tạo, nâng cấp và quản lý khai thác và sử dụng hiệu quả hệ thống KGCC trong khu chung cư cũ như trường hợp Giảng Võ là một trong những ví dụ thích hợp. Và sự TGCĐ diễn ra trong các bước của quy trình lập đồ án quy hoạch đô thị, đó là:1. Xác định nhiệm vụ thiết kế;2. Thống nhất mục đích và các 61 mục tiêu của đồ án;3. Đánh giá hiện trạng;4. Lựa chọn phương án;5. Đánh giá các giải pháp thực hiện; Ở bước quản lý đầu tư xây dựng, tùy theo quy mô và tính chất của từng đồ án, dự án mà xây dựng các cơ chế phối hợp các bên liên quan để huy động sự tham gia cộng đồng. Để cộng đồng tham gia hiệu quả, có thể thông qua các tổ chức cộng đồng được đề xuất thành lập mới phù hợp với yêu cầu của đồ án, dự án cụ thể, như: Ban giám sát cộng đồng, Tổ cộng đồng tự quản, Ở giai đoạn sau khi dự án được hoàn thành, bàn giao và đưa vào sử dụng thì sự tham gia cộng đồng trong việc khai thác sử dụng, duy tu, bảo trì, có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo tính hiệu quả cũng như sự phát triển bền vững của kết quả dự án. Cộng đồng có thể thành lập các tổ chức của mình để huy động sự tham gia trực tiếp của cộng đồng, như Ban quản lý, Ban đại diện cộng đồng, 2.2.7 Nhận xét Các vấn đề cần làm rõ khi áp dụng các cơ sở lý thuyết nêu trên: Ởphương Tây với sự đề cao tính dân chủ, mức độ TGCĐ là điều luôn được coi trọng và đề cao. Tuy nhiên thực tại ở Việt Nam, hầu hết các dự án quản lý quy hoạch đô thị mới chỉ dừng ở cấp độ 5 (theo Arnstein) hay cấp độ Hội đàm (theo Paul). Các cuộc chưng cầu ý dân được lập ra với mục đích lấy ý kiến cộng đồng. Tuy nhiên, hiệu quả chưa thực sự cao và quyết định cuối cùng vẫn thuộc về các cơ quan có thẩm quyền. Vì vậy, để vận dụng các lý thuyết trên một cách hiệu quả, cần có các cách phân tích, đặt vào thực tế các điều kiện khách quan, để đưa ra được lý thuyết riêng của phù hợp với KPC Hà Nội. 62 2.3. Cơ sở pháp lý 2.3.1 Văn bản quy phạm pháp luật Nhà nƣớc Các văn bản pháp luật của nhà nước đã ban hành có liên quan đến sự TGCĐ và quản lý KTCQ KPC Hà Nội gồm có: - Luật quy hoạch đô thị 2009, ngày 20 tháng 7 năm 2015. Trong luật quy hoạch đô thị 2015 có nhắc tới khái niệm về “quản lý không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị”, trong đó liên quan đến KTCQ của KPC. Tuy nhiên KPC là một di sản đô thị đặc biệt, nên còn cần đến sự điều chỉnh bởi các luật khác. Trong Luật có quy định: Lấy ý kiến về quy hoạch đô thị là bắt buộc trong quy trình lập quy hoạch đô thị cũng như phải công khai đồ án quy hoạch đã được phê duyệt trong thời gian 30 ngày. Đồng thời, Luật quy định rõ: tùy theo cấp độ, phạm vi của đồ án quy hoạch đô thị sẽ có hình thức thu thập ý kiến cộng đồng tương ứng. - Luật di sản văn hóa 2009, (được sửa đổi bổ sung 2009) Trong luật di sản 2009ghi rõ việc khuyến khích phát triển và bảo vệ các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, như: di tích, danh lam, cổ vật, các lễ hội truyền thống Tuy nhiên đối với di sản đô thị như trường hợp KPC Hà Nội, là đối tượng rất cần được quản lý và nghiên cứu thì lại chưa được đề cập đầy đủ. - Luật Xây dựng năm 2014, ngày 18 tháng 06 năm 2014 Tại Điều 17 Luật Xây dựng, quy định rõ ràng, như Luật Quy hoach đô thị: “Việc lấy ý kiến cộng đồng dân cư về nhiệm vụ và đồ án quy hoạch chung được thực hiện thông qua lấy ý kiến của đại diện cộng đồng dân cư bằng hình thức phát phiếu điều tra, phỏng vấn. Đại diện cộng đồng dân cư có 63 trách nhiệm tổng hợp ý kiến cộng đồng dân cư theo quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở”. - Pháp lệnh Dân chủ cơ sở số 34/2007/PL-UBTVQH11, 20/4/2007[11] Pháp lệnh quy định quyền được tham gia trong một số lĩnh vực liên quan đến quy hoạch xây dựng, như: Công khai quy hoạch để nhân dân biết, tiến độ thực hiện, phương án đền bù, kế hoạch sử dụng đất, - Nghị định 38/2010/NĐ-CP ngày 7/4/2010 về Quản lý không gian, kiến trúc, cảnh quan. Nay sau khi Luật Kiến trúc ra đời, Nghị định 38 hết hiệu lực và thay bằng Luật Kiến trúc (2019) với Nghị định số 85/2020/NĐ-CP. Trong Nghị định 38, Chính phủ thống nhất quản lý và phân cấp quản lý không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị. UBND thành phố, thị xã, thị trấn (sau đây gọi là chính quyền đô thị) quản lý toàn diện không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị trong phạm vi địa giới hành chính do mình quản lý. Cơ quan có chức năng quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị ở địa phương có trách nhiệm giúp chính quyền đô thị quản lý không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị. Việc quản lý không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị phải tuân thủ theo quy hoạch đô thị, thiết kế đô thị và quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị. Đối với những khu vực đô thị, tuyến phố chưa có quy hoạch chi tiết, thiết kế đô thị, quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị thì thực hiện việc quản lý theo quy chuẩn, tiêu chuẩn về quy hoạch xây dựng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và phải phù hợp với các quy định trong Nghị định này. Đảm bảo tính thống nhất trong việc quản lý từ không gian tổng thể đô thị đến không gian cụ thể thuộc đô thị; phải có tính kế thừa kiến trúc, cảnh quan đô thị và phù hợp với điều kiện, đặc điểm tự nhiên, đồng thời tôn trọng tập 64 quán, văn hóa địa phương; phát huy các giá trị truyền thống để gìn giữ bản sắc của từng vùng, miền trong kiến trúc, cảnh quan đô thị. Việc quản lý không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị phải căn cứ vào quy hoạch, thiết kế đô thị được cấp có thẩm quyền duyệt và phải được chính quyền đô thị quy định cụ thể bằng Quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị. - Nghị định chính phủ số 29/2007/NĐ-CP về Quản lý kiến trúc đô thị[12]. Trong đó quy định về Giám sát cộng đồng về kiến trúc đô thị. Cộng đồng thực hiện quyền giám sát bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua Ban thanh tra nhân dân. - Thông tư 07/2008/TT-BXD, Ngày 7/4/2008 [6] Trong đó có (phần III) hướng dẫn việc lấy ý kiến về nhiệm vụ và đồ án quy hoạch xây dựng. - Luật đất đai số 45/2013/QH13 ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2013. - Nghị định “Quy định về quản lý không gian kiến trúc cảnh quan đô thị “số 38/2010/ND-CP [13]. Quy định về quản lý không gian kiến trúc cảnh quan đô thị có các mục liên quan tới nghiên cứu của luận án gồm Chương II. Điều 6. Quy định chung đối với không gian, kiến trúc cảnh quan đô thị. Điều 12, Điều 14, Điều 16. - Nghị địnhchính phủ số 64/2010/NĐ-CP về Quản lý cây xanh đô thị[14]. Các nội dung liên quan đến luận án thể hiện ở: Chương III – Điều 17. Đối với cây xanh được bảo tồn trong đô thị - Là một trong những vẫn đề nổi cộm của KPC, có tác động đến hình thái cảnh quan kiến trúc đặc trưng. Tuy 65 nhiên, trong nghị định mới đề cập chung chung, chưa nói rõ tới các công việc bảo tồn, kể cả những hình dáng vốn có tạo nên nét riêng biệt, đặc sắc của khung cảnh. Trong khi cây xanh có ảnh hưởng mang tính hình ảnh đô thị, mang lại những giá trị cảnh quan kiến trúc mà luận án đề cậ - Luật Kiến trúc (2019) và Nghị định số 85/NĐ-CP về Quy định chi tiết một số điều của Luật Kiến trúc. Trong đó, Điều 8 có quy định về lập quy chế quản lý kiến trúc. Quy chế này bao trùm cả nội dung quản lý không gian, kiến trúc, cảnh quan đã được quy định tại Nghị định 38 trước đây. 2.3.2. Văn bản quy phạm pháp luật của Thành phố Hà Nội. - Luật thủ đô số 25/2015/QH13[30] - Quy chế quản lý KPC Hà Nội. Đánh giá tổng kết 2 năm triển khai thực hiện quyết định 6398/QĐ- UBND ngày 24/10/2013 của UBND Thành phố Hà Nội về Quy chế quản lý Quy hoạch - Kiến trúc khu Phố cổ Hà Nội đã nêu rõ được những mặt mạnh và tính hiệu quả của quy chế này. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý của Thành phố trong triển khai.Sự ủng hộ và quan tâm từ phía cộng đồng rất tích cực và được sự đồng thuận cao.Việc bảo tồn và trung tu các di sản cũng được triển khai với sự ủng hộ cao từ phía cộng đồng. - Kế hoạch 63/KH-UBND ngày 26/3/2020 về Triển khai công tác chuẩn bị lập “Quy hoạch thành phố Hà Nội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Nội dung của Kế hoạch đề cập đến sắp xếp, phân bố không gian các hoạt động kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh gắn với việc phát triển kết cấu hạ tầng, trong đó có liên quan đến KTCQ KPC Hà Nội, đồng thời đề cập đến sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường trên địa bàn thành phố để sử dụng hiệu quả các nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển bền vững trong thời kỳ 2021 – 2030 và những năm tiếp theo. (Phụ lục II.2) 66 2.4. Cơ sở thực tiễn 2.4.1. Lịch sử tham gia cộng đồng trong quản lý kiến trúc cảnh quan khu phố cổ Hà Nội Sự TGCĐ trong quản lý KTCQ KPC Hà Nội có lịch sử lâu đời, được thể hiện qua các hình thức, như: 2.4.1.1. Quá trình phát triển cộng đồng trong lịch sử a. Tổ chức xã hội làng – xã truyền thống Về lịch sử TGCĐ ở nước ta, GS Vũ Quốc Thúc trong cuốn “Nền kinh tế công xã Việt Nam” cho rằng, cho đến trước 1945, cấu trúc quan hệ trong các làng ở Bắc Bộ theo kiểu “công xã nguyên thủy” về mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, thể hiện qua chế độ ruộng công, chế độ bầu cử, hương ước ở từng làng. Pierre Gourou, một học giả Pháp khẳng định: Rất khác với cách tổ chức xã hội của người Trung Hoa, làng Việt là một cộng đồng tự trị theo kiểu dân chủ đại diện. Dân làng bầu ra người đứng đầu (tộc trưởng, trưởng thôn/ bản) với bộ máy và Hương ước riêng để điều chỉnh các mối quan hệ. Kết cấu cộng đồng làng xã như thế đã tồn tại trong lịch sử bất chấp các biến cố chính trị, chiến tranh và thiên tai. Đến thời thuộc Pháp (1884-1954), mô hình tự quản làng xã vẫn được giữ nguyên. [97,88] (Hình 2.1) Hình 2.1: Bức tranh Hà Nội thế kỷ XIX (trước khi người Pháp đến), họa sĩ Nguyễn Thế Khang cho thấy Kẻ Chợ còn mang nhiều hình ảnh của làng quê.[20] 67 Với Thăng Long – Hà Nội, đất Kinh kỳ, nơi trung tâm hội tụ của dân cư bốn phương đến làm ăn sinh sống. Mối quan hệ cộng sinh giữa các cư dân đến từ nhiều vùng nông thôn với nghề nghiệp khác nhau đã tạo nên sự đa dạng về văn hóa cư trú. Điều đó đã được mô tả trong Văn bia ở Vĩnh Ninh, Yên Ninh: “Nay thiết tưởng làng ta quần cư, vốn là người không có điền thổ căn cước bốn phương đến làm nhà cư trú tại đấy, thành ra lạc giao, chọn được làng nhân đức, nguyện nhập hương ẩm hội lễ”. Và cũng đúng như các ngạn ngữ phổ biến như “Phép vua thua lệ làng” hay ” Bán anh em xa mua láng giềng gần” cho thấy các quy tắc ứng xử giữa trong cộng đồng đã tạo nên tính cố kết bền vững của hình thức tổ chức xã hội ở Thăng Long – Hà Nội có nguồn gốc từ nông thôn.[37] b. Tổ chức cộng đồng mới Cùng với sự phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa mạnh mẽ, xuất hiện nhiều tổ chức cộng đồng mới, có ảnh hưởng lớn tới các hoạt động xã hội, trong đó có công tác quản lý KTCQ KPC Hà Nội. Đó là các cộng đồng hàng phố, phường hội nghề nghiệp, cộng đồng trí thức, viên chức, cộng đồng tôn giáo,...[64] Sau tiếp quản Thủ đô, chính sách quản lý nhà đất mới hình thành: Mỗi hộ gia đình được sử dụng không quá 200m2. Những gia đình có nhà đất diện tích lớn hơn được vận động hiến cho nhà nước quản lý để cho thuê. KTCQ KPC Hà Nội, vì thế có nhiều biến đổi: Một số cơ sở kinh doanh, nhà ở tư nhân, cơ sở tôn giáo thành các cơ sở sản xuất hay trụ sở cơ quan, trường học, Hoạt động cộng đồng, chủ yếu thông qua các phong trào lao động XHCN, cứu trợ,(Bảng 2.2) Giai đoạn 2007-2018, đánh dấu sự trở lại của cộng đồng trong quản lý, duy tu và khai thác KTCQ KPC. Những dự án thành công trong bảo tồn 68 đình, chùa, hội quán hay chỉnh trang không gian đi bộ, cho thấy sự TGCĐ hiệu quả đã làm nên sức sống mới cho không gian KTCQ KPC Hà Nội. Những năm gần đây, cộng đồng dân cư KPC Hà Nội đang biến đổi mạnh với sự xuất hiện nhiều chức năng mới theo hướng dịch vụ, thương mại hướng tới du lịch. Các cộng đồng cư dân mới có tiềm lực tài chính, có mối quan hệ xã hội rộng đang trở thành những tác nhân có ảnh hưởng trực tiếp, có tính quyết định đến quy hoạch và quản lý KTCQ KPC Hà Nội. Bảng 2,2. Biến đổi thành phần cộng đồng dân cư trong KPC Hà Nội 69 2.4.1.2. Hương ước – Bộ luật tục của làng- xã Hương ước là văn bản pháp luật của làng bên cạnh các bộ luật phong kiến chính thống nhằm đáp ững nhu cầu tự thân của các cư dân trong làng, xã. Hương ước do tầng lớp Nho sĩ, trí thức bình dân ở làng làm nên. Hương ước điều chỉnh các mối quan hệ để tạo dựng và củng cố tính bền vững trong cố kết cộng đồng làng xã. Hương ước cũng là văn bản thể hiện sự đồng thuận – sức mạnh chính yếu của các cộng đồng thị dân ở Thăng Long - Hà Nội. Tùy theo từng cộng đồng, số lượng công điền nhiều ít mà Hương ước định ra cách phân chia sử dụng. Công điền có thể bớt đi khi có những khoản chi tiêu lớn: Xây dựng đình đình, chùa, chợ, cầu, bến thuyền. Công điền có thể tăng thêm bởi các cá nhân trong cộng đồng hiến tặng dưới hình thức Bầu hậu hay Lập hậu. [32] Bầu hậu là phong tục phổ biến ở Việt Nam trong lịch sử. Đó là cá nhân cung tiến gia sản cho địa phương, các cơ sở thờ tự và phường hội, cộng đồng để được báo đáp bằng một số quyền lợi nhất định. Ngoài ra, còn có tục Thầu đ n – một hình thức quyên góp của cộng đồng hàng phố chủ yếu góp phần vào công việc tu sửa đền, chùa, miếu. Người đến bỏ thầu đều mong được đ n mang về để nhà có phúc, cả năm buôn bán tốt lành. Tục thầu đ n còn có ý nghĩa gắn kết cộng đồng cư dân về tinh thần cũng như vật chất. Tục thầu đ n mai một dần từ 1873. Ngạn ngữ và phong tục thể hiện văn hóa cộng cư và cách thức TGCĐ trong lịch sử KPC Hà Nội, trong đó khuyến khích các cá nhân tham gia đóng góp tài chính và công sức vì lợi ích của toàn thể cộng đồng. [1,15] 70 2.4.2. Các dự án đã thực hiện tại Khu phố cổ Hà Nội 2.4.2.1. Giải pháp chỉnh trang không gian kiến trúc tuyến phố Tạ Hiện Đây là giải pháp cho loại hình “Tuyến” trong quản lý KTCQ. Dự án cải tạo mặt đứng phố Tạ Hiện mang tính cộng đồng cao, là hình mẫu cho việc triển khai các dự án sau này nhằm bảo tồn và tôn tạo các dãy phố và gìn giữ, phát huy những giá trị kiến trúc trong KPC. Các dãy nhà vốn được xây dựng để cho thuê nên mặt đứng giống nhau. Người thuê, trong quá trình sử dụng đã sửa chữa tùy tiện, làm biến dạng kiến trúc. Dự án đã hợp tác với cư dân tại chỗ để chỉnh trang phục hồi nguyên trạng hình thức kiến trúc mặt phố. Sau cải tạo phố Tạ Hiện trở thành địa điểm thu hút các hoạt động thương, làm gia tăng giá trị kinh tế cũng như chất lượng không gian KTCQ. (Hình 2.2) Hình 2.2: Phố Tạ Hiện trước và sau tôn tạo nâng cấp 2014[20]. 2.4.2.2. Giải pháp chỉnh trang KTCQ tuyến phố Lãn Ông Đây là giải pháp cho loại hình “Tuyến và Diện” trong quản lý KTCQ. Tuyến phố Lãn Ông khá đặc biệt trong KPC Hà Nội. Dự án đã hoàn thành và được sự ủng hộ cao từ cộng đồng. Người dân tự nguyện hoàn trả không gian 71 đã lấn chiếm, tạo dựng bộ mặt tuyến phố với hiệu quả thẩm mỹ cao mà vẫn đảm bảo hoạt động buôn bán nghề truyền thống. (Hình 2.3,2.4,2.5,2.6,2.7) Dự án là một ví dụ điển hình về sự TGCĐ trong quản lý KTCQ KPC Hà Nội với kết quả cụ thể: 1) Đảm bảo lợi ích của người dân; 2) Tạo lập tuyến phố đi bộ, thu hút du lịc, góp phần phát triển kinh tế; 3) Xây dựng quy chế hoạt động, các kịch bản hoạt động đảm bảo sự phát triển lâu dài của tuyến phố. Hình 2.3: Mặt bằng phố Lãn Ông và các công trình tôn tạo theo tuyến[62]. 72 Hình 2.4: Mặt đứng(số chẵn) hiện trạng và chỉnh trang phố Lãn Ông[62]. Hình 2.5: Mặt đứnghiện trạng (số lẻ) phố Lãn Ông 73 Hình 2.6: Mặt đứng chỉnh trang (số lẻ) phố Lãn Ông Hình 2.7: Bảo tồn Đình Hàng Bạc, Đình Quan Đế (Hàng Buồm). 2.5. Yếu tố tác động đến công tác quản lý kiến trúc cảnh quan khu phố cổ Hà Nội 2.5.1. Nhu cầu sinh hoạt cộng đồng Nhu cầu về không gian sinh hoạt cộng đồng luôn là thiết yếu trong đời sống của con người. Trên thế giới, các không gian sinh hoạt cộng đồng luôn được các nhà quản lý, KTS nghiên cứu một các kỹ lưỡng để đưa ra các giải pháp hợp lý nhất nhằm tạo ra các không gian sinh động, đa dạng và hấp dẫn. Tại các thành phố ở châu Âu những không gian này thường là các không gian mở trước các 74 công trình lớn như: Toà thị chính, Nhà hát, trung tâm thương mại, các công trình đa chức năng. [26]. Ở Việt Nam, sinh hoạt cộng đồng vốn có nguồn gốc từ làng xã. Thời phong kiến, đó là Đình, Chùa, cổng làng, cây Đa bến nước, thì thời Bao cấp lại thêm sân kho hợp tác và ngày nay lại có thêm các nhà văn hoá. Các không gian này cũng được đặc biệt chú ý tại các thành phố ở Việt Nam. Hà Nội có các công viên, vườn hoa, quảng trường trước nhà hát lớn, trước Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh,... Đặc biệt là các không gian xung quanh những hồ nước, bên cạnh khu phố cổ là Hồ Gươm và vùng phụ cận Một địa điểm lý tưởng cho các sinh hoạt cộng đồng gắn kết xã hội của người dân Thủ đô và cả nước. Vai trò của các sinh hoạt cộng đồng rất quan trọng. Một không gian công cộng mà thiếu con người, nói cách khác là không có các hoạt động của con người thì đó là một thất bại trong việc tổ chức không gian, cũng như trong việc khai thác sử dụng các không gian đó. (Hình 2.8) Hình 2.8: Trẻ em chơi trên h phố 1993 và phố đêm Tạ Hiện 2016 75 Như vậy có thể nói, các sinh hoạt cộng đồng có một vai trò to lớn đối với các không gian công cộng, nếu thiếu vắng đi các sinh hoạt cộng đồng sẽ làm cho các không gian công cộng đó trở nên vắng lạnh, thiếu sức sống. Ngược lại, nếu các sinh hoạt cộng đồng được tổ chức bài bản, thì sẽ làm tăng giá trị của các không gian công cộng đó. Đành rằng các không gian công cộng là khu vực hiệu quả nhất trong việc tạo nên các giao tiếp xã hội – thứ không thể thiếu của cuộc sống, thúc đẩy mối quan hệ giữa con người với nhau và ảnh hưởng lên các hành vi xã hội của con người. Nhưng nếu như các không gian công cộng đó không được tổ chức các lễ hội, giao lưu, các hoạt động văn hoá, nghệ thuật với sự TGCĐ thì các không gian đó cũng trở nên vô nghĩa. Việc khai thác các sinh hoạt cộng đồng tại các không gian công cộng làm tăng giá trị cuộc sống của con người và làm cho các không gian đó thêm sống động và ý nghĩa – tạo nên giá trị của nơi chốn. Ví dụ: Các hoạt động trượt băng nghệ thuật trước Quảng trường Toà thị chính Paris, liên hoan film tại thành phố Cannes, lễ hội ánh sáng ở Lyon, lễ hội hoá trang Venice, hoa Anh Đào ở Tokyo, Chợ đêm ở Đà Lạt, ở KPC Hà Nội,... là
File đính kèm:
- luan_an_quan_ly_kien_truc_canh_quan_khu_pho_co_ha_noi_voi_su.pdf
- TOM TAT LA TIENG VIET.pdf
- TOM TAT LA TIENG ANH.pdf
- ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LA TIẾNG VIỆT.pdf
- ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LA TIẾNG ANH.pdf