Luận án Sử dụng phân hữu cơ vi sinh từ nguồn nấm phân lập trong cải thiện bạc màu đất và năng suất cam sành tại huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Sử dụng phân hữu cơ vi sinh từ nguồn nấm phân lập trong cải thiện bạc màu đất và năng suất cam sành tại huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Sử dụng phân hữu cơ vi sinh từ nguồn nấm phân lập trong cải thiện bạc màu đất và năng suất cam sành tại huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long
, thu lợi nhuận nhanh, chỉ cần khai thác triệt để cây cam trong 3 - 5 năm sau đó phá bỏ vườn và trồng mới lại, do đó có đến 60% vườn cam được trồng với mật độ cao, từ 200 – 300/1000 m2 (Hình 4.4). Trong khi mật độ trồng cam khuyến cáo là 110 cây/1.000 m2 (Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong, 2011). Hình 4.4 Mật độ cây cam Sành 55 4.1.5 Tình hình xử lý ra hoa trên vườn cam Sành Kết quả trình bày ở Hình 4.5 cho thấy số vườn cam bắt đầu xử lý ra hoa ở độ tuổi 2 đến 4 năm chiếm tỷ lệ 84%. Trong đó cao nhất là nhóm 2 đến 3 năm tuổi (50,7%). Nhóm cây xử lý ra hoa ở độ tuổi sau 4 năm chiếm tỷ lệ rất thấp (4,5%). Như vậy, thời điểm xử lý ra hoa lần đầu trên vườn cây cam Sành tại Tam Bình là sớm hơn một năm so với khuyến cáo. Theo kết quả nghiên cứu trước đây cho thấy, tuổi cây cam Sành chỉ phù hợp cho xử lý ra hoa khi cây đạt 5 năm tuổi trở lên (Rabe, 2000; Iglesias et al., 2007). Thời điểm xử lý ra hoa trên cây cam được thực hiện từ tháng 8-12 hàng năm. Trong giai đoạn này người trồng cam quản lý nước và phân bón nhằm thúc đẩy sự ra hoa tập trung trên cây cam Sành. Tuy nhiên, việc sử dụng phân bón N, P, K rất khác nhau giữa các vườn cam Sành. Hình 4.5 Tình hình xử lý ra hoa trên vườn cam Sành 4.1.6 Sử dụng phân hữu cơ trên đất liếp vườn cam Kết quả khảo sát cho thấy các vườn cam được cung cấp dưỡng chất chủ yếu là phân vô cơ. Lượng phân hữu cơ sử dụng cho vườn cây cam Sành rất thấp, trung bình cao nhất 1,13 tấn/ha, thấp hơn nhiều so với khuyến cáo là 10 tấn/ha (Võ Thị Gương và ctv., 2016), bón chủ yếu ở giai đoạn tuổi cây nhỏ hơn 1,5 năm tuổi. Nguồn phân hữu cơ nông dân sử dụng dựa vào nguồn có sẵn tại địa phương như phân chuồng, phân hữu cơ tổng hợp. Việc bón phân hữu cơ cho cây cam Sành có liên quan đến độ tuổi của cây. Hai nhóm tuổi cây dưới 1,5 năm và trên 8 năm có tỷ lệ số hộ sử dụng phân hữu cơ cao nhất (25%). Nhóm tuổi cây 1,5 - 4 năm tuổi có số vườn sử dụng phân hữu cơ rất thấp, chỉ khoảng 15% (Hình 4.6). Bón phân hữu cơ là biện pháp hiệu quả giúp tăng lượng chất hữu cơ trong đất, cải thiện tính chất vật lý và hóa học đất, tăng 56 cường hoạt động vi sinh vật (Võ Thị Gương và ctv., 2010; Krull et al., 2004; Trần Bá Linh và ctv. 2008; Chotte, 2015) Hình 4.6 Tình hình sử dụng phân hữu cơ trên vườn cam Sành 4.1.7 Sử dụng phân vô cơ trên đất liếp vườn trồng cam - Phân đạm: Số liệu trình bày ở Hình 4.7 cho thấy chỉ có 12% số vườn cam bón phân N phù hợp với khuyến cáo, có đến 78% số vườn cam bón phân N thấp hơn hoặc cao hơn mức khuyến cáo 250 g N/cây/năm ở thời kỳ mang trái (Võ Thị Gương và ctv., 2016). Kết quả nghiên cứu trước đây cho thấy, bón phân N thấp hơn nhu cầu của cây trồng hoặc cao hơn đều gây bất lợi cho sinh trưởng của cây và ảnh hưởng đến đặc tính hóa học và sinh học đất (Zentmeyer, 1963; Nemec và Zablotowicz, 1981; Lee and Zentmeyer, 1982; Dandurand và Menge, 1992; Downer et al., 2013). 57 Hình 4.7 Tình hình sử dụng phân N trên vườn cam Sành - Phân lân: Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong (2011) thì lượng phân lân bón cho cây vào giai đoạn cho trái ổn định (4 - 5 tuổi) khoảng 150 - 200 g P2O5/cây/năm. Qua khảo sát có đến 40% số vườn cam bón cao hơn so với khuyến cáo (Hình 4.8). Hình 4.8 Tình hình sử dụng phân P trên vườn cam Sành - Phân kali: Kết quả trình bày ở Hình 4.9 cho thấy nông dân trồng cam chưa quan tâm đến việc cung cấp phân bón kali ở giai đoạn mang trái. Theo khuyến cáo của Võ Thị Gương và ctv. (2016), lượng kali cần cung cấp cho cây cam vào thời điểm mang trái là 150 g K2O/cây/năm, có đến 75% số vườn cam bón phân kali thấp hơn nhu cầu để đạt năng suất và chất lượng trái tốt. 58 Hình 4.9 Tình hình sử dụng phân K trên vườn cam Sành Như vậy, kết quả khảo sát cho thấy hầu hết các vườn trồng cam tại huyện Tam Bình sử dụng phân bón vô cơ không cân đối giữa các dưỡng chất N, P và K với đa số bón phân N và K thấp, trong khi cung cấp lượng phân P cao hơn so với khuyến cáo. 4.1.8 Tình hình bệnh vàng lá thối rễ trên vườn cam Sành Kết quả khảo sát cho thấy bệnh vàng lá thối rễ (VLTR) trên vườn cam Sành tại huyện Tam Bình khá phổ biến với 40% số vườn có mức độ nhiễm từ trung bình đến nặng, 60% số vườn ở mức độ nhẹ (Hình 4.10). Hình 4.10 Phân cấp bệnh vàng lá thối rễ trên vườn cam Sành 59 Kết quả khảo sát tỷ lệ bệnh vàng lá thối rễ trên vườn cam Sành có liên quan đến tuổi liếp. Vườn cam Sành có tuổi liếp ≤ 15 năm tuổi có tỷ lệ bệnh vàng lá thối rễ thấp (10,49%), khác biệt có ý nghĩa thống kê so với vườn có tuổi liếp trên 15 năm tuổi (21,28%) (Hình 4.11). Theo kết quả nghiên cứu của Võ Thị Gương và ctv. (2016) cho thấy hầu hết các vườn trồng cây cam, quýt có tuổi liếp trên 15 năm tuổi, đất bạc màu thể hiện qua pH và hàm lượng CHC trong đất thấp, nghèo N hữu cơ dễ phân hủy, N hữu dụng, cation trao đổi như Mg2+, Ca2+ và độ bảo hòa base đều thấp, nhất là hoạt động của vi sinh vật đất rất thấp. Trong nghiên cứu trước đây, trong đất có độ hoạt động của enzyme urease, catalase cao, mật số vi sinh vật gây bệnh trong đất giảm thấp có ý nghĩa so với đối chứng (Zhang et al., 2017). Khả năng hoạt động của vi sinh vật trong đất đóng vai trò kiểm soát sinh học bệnh hại trong đất (Sharon et al., 2001; Howell, 2003; Kumar et al., 2007; El–Mohamedy et al., 2012; Cheng et al., 2020). Khi đất vườn cây ăn trái được bón phân hữu cơ, các đặc tính hóa lý và sinh học đất được cải thiện đáng kể, góp phần tăng năng suất trái (Adiaha, 2017; Prima et al., 2018). Hình 4.11 Đánh giá tỷ lệ bệnh vàng lá thối rễ trên tuổi liếp Ghi chú: Các chữ cái a,b,ctrên mỗi cột thể hiện khác biệt ý nghĩa qua kiểm định Tukey 5%(*) và thanh sai số trên đồ thị biểu thị độ lệch chuẩn (SD). 4.1.9 Năng suất trái vườn cam Sành Kết quả ở Hình 4.12 cho thấy năng suất trái giảm có ý nghĩa trên vườn cam bị bệnh VLTR. Vườn cam bị bệnh VLTR cho thấy năng suất trái thấp, năng suất trung bình chỉ đạt 4,02 tấn/ha, giảm đến 65% so với vườn cam 60 không bệnh. Kết quả này có thể so sánh với năng suất trái giảm gần 40% khi cây cam bị bệnh VLTR ở mức khoảng 12% (El-Mohamedy, 1998). Hình 4.12 Đánh giá năng suất trái vườn cam Sành đối với bệnh vàng lá thối rễ Ghi chú: Các chữ cái a,b,ctrên mỗi cột thể hiện khác biệt ý nghĩa qua kiểm định Tukey 5%(*) và thanh sai số trên đồ thị biểu thị độ lệch chuẩn (SD). Tóm lại, với hiện trạng canh tác mật độ trồng cao, không bón phân hữu cơ, hoặc chỉ bón với lượng rất thấp, canh tác trên đất liếp lâu năm, bón phân vô cơ chưa hợp lý, bệnh hại gây giảm năng suất trái vườn cam Sành, trong đó yếu tố bạc màu đất về đặc tính hóa lý, sinh học đất có thể là yếu tố quan trọng (Huber, 1990; Zucconi, 1993; Võ Thị Gương và ctv., 2010; Zhang et al., 2017). 4.2 Đánh giá độ phì nhiêu đất của vườn cam Sành qua ảnh hưởng của tuổi liếp 4.2.1 Ảnh hưởng của tuổi liếp đến pH đất Kết quả phân tích ở Hình 4.13 cho thấy pH đất trên vườn cam Sành không có liên quan đến tuổi liếp. pH đất trên hai nhóm tuổi liếp được đánh giá đất có tính chua trung bình (Obreza et al., 2008). Khoảng pH đất ở mức trung bình thấp cho thấy độ phì nhiêu đất suy giảm (Huang et al., 2019; Zhang, 2017). Như vậy, đất liếp vườn cam Sành canh tác qua nhiều năm cho thấy pH đất thay đổi không đáng kể, được đánh giá ở mức trung bình thấp. Tuy nhiên, với pH đất thấp dẫn đến giảm năng suất vườn cây ăn trái (Natale et al., 2012). 61 Hình 4.13 Ảnh hưởng của tuổi liếp đến pH đất Ghi chú: “ns” kiểm định các giá trị trung bình không khác biệt ý nghĩa; thanh sai số trên đồ thị biểu thị độ lệch chuẩn (SD). 4.2.2 Ảnh hưởng của tuổi liếp đến chất hữu cơ trong đất Kết quả phân tích ở Hình 4.14 cho thấy tuổi liếp khác nhau có ảnh hưởng đến hàm lượng chất hữu cơ trong đất. Vườn cam có tuổi liếp ≤ 15 năm tuổi có hàm lượng chất hữu cơ ở mức trung bình (4,3%), khác biệt có ý nghĩa thống kê so với vườn cam trên 15 năm tuổi ở mức thấp (3,7%) (Landon, 1984). Kết quả cho thấy đất canh tác vườn cam lâu năm dẫn đến hàm lượng chất hữu cơ trong đất thấp có thể là nguyên nhân góp phần dẫn đến suy giảm độ phì nhiêu đất. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu trước đây, các vườn cây ăn trái trên 30 năm tuổi cho thấy độ phì nhiêu đất giảm thể hiện qua các đặc tính đất như pH, CHC, Nhd, Phd, Ktđ thấp (Võ Thị Gương và ctv., 2010; Pham Van Quang and Vo Thi Guong, 2012; Hồ Văn Thiệt và ctv., 2014). Tuy nhiên, khi đất vườn cây ăn trái được bón phân hữu cơ giúp cải thiện các đặc tính đất góp phần nâng cao độ phì nhiêu đất (Hillel, 2005; Tomašić et al., 2013; Adiaha, 2017; Prima et al., 2018). Chất hữu cơ giữ vai trò quan trọng đến cải thiện các đặc tính đất (Sinabaugh et al., 1991; Liu et al., 2010; Diacono and Montemurro, 2010; Dương Minh Viễn và ctv., 2011; Shukla and Verma, 2011; Murphy, 2014; Võ Thị Gương và ctv., 2016; Sutopo and Aji, 2020; Verma et al., 2020), duy trì cấu trúc đất, nâng cao khả năng giữ nước và hoạt động của vi sinh vật trong đất (Rees et al., 2000; Krull et al., 2004; Gong et al., 2009). Vì vậy, trong canh tác cam Sành cần bón bổ sung phân hữu cơ giúp cải thiện độ phì nhiêu đất. 62 Hình 4.14 Ảnh hưởng của tuổi liếp đến chất hữu cơ trong đất Ghi chú: Các chữ cái a,b,ctrên mỗi cột thể hiện khác biệt ý nghĩa qua kiểm định Tukey 5%(*) và thanh sai số trên đồ thị biểu thị độ lệch chuẩn (SD). 4.2.3 Ảnh hưởng của tuổi liếp đến Nhd trong đất Kết quả trình bày ở Hình 4.15 cho thấy tuổi liếp khác nhau có ảnh hưởng đến hàm lượng Nhd trong đất trên vườn cam Sành. Đất vườn canh tác cam Sành trên 15 năm tuổi cho thấy hàm lượng Nhd trong đất thấp (31,2 mg/kg), khác biệt có ý nghĩa thống kê so với đất canh tác với tuổi liếp nhỏ hơn. Theo kết quả nghiên cứu trước đây, hàm lượng Nhd trong đất từ 30-50 mg/kg đáp ứng đủ cho nhu cầu của cây trồng ở đất có pH từ 6,5-8,0 (Angus and Peoples, 2012; Robert, 2015). Tuy nhiên, pH đất trên vườn có tuổi liếp trên 15 năm tuổi ở mức thấp (dưới 5,0) có thể dẫn đến hạn chế độ hữu dụng hàm lượng Nhd trong đất. Kết quả nghiên cứu trước đây cho thấy, khi pH đất thay đổi dẫn đến giới hạn độ hữu dụng các dưỡng chất trong đất (Fageria and Baligar, 1999; Obreza et al., 2008). Vì vậy, các vườn cam có tuổi liếp trên 15 năm tuổi có thể thiếu hụt lượng Nhd trong đất. Trong khi, các vườn cam có tuổi liếp nhỏ hơn 15 tuổi có hàm lượng Nhd cao trong đất (P<0,05). Theo kết quả khảo sát Hình 4.3 có trên 45% số vườn cam có tuổi liếp thấp hơn 15 năm. Như vậy, trong canh tác cam Sành cần giảm lượng phân đạm đối với đất canh tác có tuổi liếp thấp hơn 15 năm nhằm giảm chi phí đầu tư trong phân bón. 63 Hình 4.15 Ảnh hưởng của tuổi liếp đến hàm lượng đạm hữu dụng trong đất Ghi chú: Các chữ cái a,b,ctrên mỗi cột thể hiện khác biệt ý nghĩa qua kiểm định Tukey 5%(*) và thanh sai số trên đồ thị biểu thị độ lệch chuẩn (SD). 4.2.4 Ảnh hưởng của tuổi liếp đến Phd trong đất Kết quả nghiên cứu ở Hình 4.16 cho thấy tuổi liếp khác nhau có ảnh hưởng đến hàm lượng Phd trong đất trên vườn cam Sành. Tuổi liếp vườn trên 15 năm cho thấy hàm lượng Phd trong đất thấp (49,6 mg/kg), khác biệt có ý nghĩa so với tuổi liếp vườn nhỏ hơn (77,3 mg/kg). Theo kết quả nghiên cứu trước đây cho thấy hàm lượng lân hữu dụng trong đất ≤ 65 mg/kg được đánh đất thiếu lân hữu dụng (Obreza et al., 2008). Như vậy, đất canh tác lâu năm (trên 15 năm) dẫn đến giới hạn độ hữu dụng lân trong đất. Hàm lượng lân hữu dụng trong đất thấp dẫn đến giới hạn sự sinh trưởng và năng suất cây trồng (IAEA, 2002; Syers et al., 2008; Zambrosi et al., 2013). Các kết quả nghiên cứu trước đây cho thấy, đất canh tác được bón phân hữu cơ giúp nâng cao hàm lượng Phd trong đất (Angelova et al., 2013; Lê Bảo Long và ctv., 2013; Võ Văn Bình và ctv., 2014; Võ Thị Gương và ctv., 2016; Dume et al., 2017; Aytenew and Bore, 2020). 64 Hình 4.16 Ảnh hưởng của tuổi liếp đến hàm lượng lân hữu dụng trong đất Ghi chú: Các chữ cái a,b,ctrên mỗi cột thể hiện khác biệt ý nghĩa qua kiểm định Tukey 5%(*) và thanh sai số trên đồ thị biểu thị độ lệch chuẩn (SD). 4.2.5 Ảnh hưởng của tuổi liếp đến Ktđ trong đất Kết quả nghiên cứu ở Hình 4.17 cho thấy tuổi liếp khác nhau có ảnh hưởng đến hàm lượng Ktđ trong đất trên vườn cam Sành. Đất vườn canh tác cam Sành trên 15 năm tuổi cho thấy hàm lượng Ktđ trong đất thấp (0,25 cmol/kg), khác biệt có ý nghĩa thống kê so với đất canh tác có tuổi liếp nhỏ hơn. Theo kết quả nghiên cứu trước đây cho thấy hàm lượng Ktđ trong đất từ 0,15 đến 0,3 cmol/kg được đánh giá đất thiếu kali (Landon, 1984). Như vậy, có thể vườn cam canh tác lâu năm tuổi (trên 15 năm) dẫn đến giới hạn hàm lượng Ktđ trong đất. Đất canh tác thiếu kali dẫn đến cây trồng dễ mẫn cảm với bệnh (Palti, 1981; Erner et al., 2005; AFares, 2009). Khi đất thiếu kali, tiến trình lignin hóa của các bó mạch ở rễ bị hư hại, dẫn làm giảm khả năng chịu ngập úng của rễ cây trồng, dẫn đến rễ cây dễ bị xâm nhập của vi sinh vật gây hại (Nguyễn Văn Hòa và ctv., 2015). Kết quả nghiên cứu trước đây cho thấy, bón bổ sung phân hữu cơ đã giúp cải thiện hàm lượng Ktđ trong đất, góp phần cải thiện sự sinh trưởng, năng suất, chất lượng trái (Võ Thị Gương và ctv., 2016; Aytenew and Bore, 2020; Tshering et al., 2020). Vì vậy, trong canh tác cam Sành cần có giải pháp cải thiện hàm lượng kali trao đổi trong đất giúp nâng cao sinh trưởng và năng suất trái vườn cam Sành. 65 Hình 4.17 Ảnh hưởng của tuổi liếp đến hàm lượng kali trao đổi trong đất Ghi chú: Các chữ cái a,b,ctrên mỗi cột thể hiện khác biệt ý nghĩa qua kiểm định Tukey 5%(*) và thanh sai số trên đồ thị biểu thị độ lệch chuẩn (SD). Từ kết quả đánh giá trên cho thấy tuổi liếp trên 15 năm canh tác đất bị giới hạn về các dưỡng chất như Nhd, Phd, Ktđ trong đất. Sự suy giảm độ phì nhiêu đất về mặt hóa học đất kết hợp với canh tác ít bón phân hữu cơ, bón phân N, P, K không cân đối có thể góp phần dẫn đến tỷ lệ bệnh vàng lá thối rễ cao hơn trên vườn có tuổi liếp nhiều năm tuổi. Vì vậy, nghiên cứu đánh giá các đặc tính đất về mặt lý, hóa và sinh học đất đối với bệnh VLTR được thực hiện nhằm xác định các yếu tố giới hạn trong canh tác vườn cam Sành, từ đó đề xuất giải pháp cải thiện đặc tính đất liên quan đến bệnh vàng lá thối rễ. 4.3 Đánh giá sự liên hệ giữa đặc tính đất và bệnh vàng lá thối rễ trên vườn cam Sành 4.3.1 Ẩm độ đất và bệnh vàng lá thối rễ Vườn cam Sành được khảo sát chia thành hai nhóm vườn (20 vườn có bệnh VLTR và 20 vườn không bệnh VLTR) nhằm đánh giá sự liên hệ giữa một số đặc tính đất và tỷ lệ bệnh vàng lá thối rễ trên vườn cam Sành. Kết quả nghiên cứu ở Hình 4.18 cho thấy nhóm vườn bị bệnh VLTR có ẩm độ đất cao (41,5%) khác biệt có ý nghĩa so với nhóm vườn không bệnh, có ẩm độ thấp hơn (31,6%). Ẩm độ đất của các vườn cam được thu thập tại thời điểm vào tháng 11 trong năm nên ẩm độ đất tương đối cao ở hai nhóm vườn cam Sành. Theo Drew et al. (1979) đất có ẩm độ cao, kéo dài trong khoảng thời gian nhất định thường gây thiếu oxy, rễ cây phải hô hấp trong điều kiện yếm khí dẫn đến hệ thống rễ cây hoạt động kém. Trong điều kiện yếm khí, sản sinh ra nhiều hợp chất polyphenol trong đất, gây hại cho tế bào rễ non, tạo điều 66 kiện Fusarium sp. dễ dàng xâm nhiễm vào cây (Ownley and Benson, 1991; Nguyễn Minh Hiếu và ctv., 2013). Theo kết quả nghiên cứu của Kunta et al. (2015), với điều kiện bất lợi cho cây trồng như trên đã tạo cơ hội cho nấm Fusarium solani xâm nhiễm vào bên trong rễ cây cam. Như vậy, ở điều kiện ẩm độ đất cao, khả năng phát triển bệnh VLTR nặng hơn so với đất có ẩm độ thấp. Hình 4.18 Đánh giá ẩm độ đất liên quan đến bệnh vàng lá thối rễ Ghi chú: Các chữ cái a,b,ctrên mỗi cột thể hiện khác biệt ý nghĩa qua kiểm định Tukey 5%(*) và thanh sai số trên đồ thị biểu thị độ lệch chuẩn (SD). 4.3.2 Đánh giá pH đất và tỷ lệ bệnh vàng lá thối rễ Kết quả nghiên cứu ở Hình 4.19 cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa thống kê về giá trị pH đất giữa nhóm vườn cam Sành có bệnh và nhóm vườn không bệnh VLTR. Tuy nhiên, chỉ số pH đất trên nhóm vườn cây bị bệnh VLTR có xu hướng cao hơn (pH =5,50), trong khi nhóm vườn không bệnh có pH đất thấp hơn (pH = 5,15). Khoảng pH đất này được đánh giá đất có tính chua trung bình, dẫn đến hạn chế độ hữu dụng một số dưỡng chất trong đất (Obreza et al., 2008), đồng thời pH đất thấp gây ra bệnh hại trên cây trồng. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của pH lên sự phát triển của nấm Fusarium solani cho thấy sự phát triển của loài nấm này thích hợp ở pH =5,5 (Gupta et al., 2010; Paudel and Tyagi, 2014). Theo Nguyễn Minh Hiếu và ctv. (2013) bệnh vàng lá thối rễ do nấm Fusarium solani thường phát triển mạnh trên đất có pH tương đối thấp, nhất là kết hợp với điều kiện ẩm độ đất cao, kéo dài. Mặc dù chưa có mối liên hệ giữa pH đất và tỷ lệ bệnh VLTR trong nội dung nghiên cứu này. Tuy nhiên, pH đất 67 canh tác các vườn cam Sành ở mức trung bình thấp, có thể cho thấy độ phì nhiêu đất suy giảm (Zhang, 2017; Huang et al., 2019), nên trong canh tác cam Sành cần tăng cường bổ sung phân hữu cơ để cải thiện pH đất và các dưỡng chất hữu dụng khác trong đất (Butterly and Tang, 2010; Liu et al., 2010; Võ Thị Gương et al., 2010a) Hình 4.19 Đánh giá pH đất và bệnh vàng lá thối rễ Ghi chú: “ns” kiểm định các giá trị trung bình không khác biệt ý nghĩa; thanh sai số trên đồ thị biểu thị độ lệch chuẩn (SD). 4.3.3 Chất hữu cơ trong đất và tỷ lệ bệnh vàng lá thối rễ Chất hữu cơ trong đất đóng vai trò rất quan trọng đến cải thiện các đặc tính đất về mặt vật lý, hóa học và sinh học đất, một trong những tiêu chí để đánh giá chất lượng đất (Krull et al., 2004; Amlinger et al., 2007; Sarwar et al., 2008; Liu et al., 2010; Sutopo and Aji, 2020; Verma et al., 2020). Kết quả phân tích cho thấy, hàm lượng chất hữu cơ trên nhóm vườn cam bị bệnh VLTR được đánh giá nghèo chất hữu cơ trong đất (2,48%) (Landon, 1984). Trong khi, nhóm vườn cam không bệnh có hàm lượng chất hữu cơ cao hơn (3,25%) và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm vườn cam bị bệnh VLTR (Hình 4.20). Nhìn chung, hàm lượng chất hữu cơ trên cả hai nhóm vườn cam điều thấp. Hàm lượng chất hữu cơ trong đất thấp do hầu hết nông dân không cung cấp hoặc cung cấp rất ít phân hữu cơ cho cây trong quá trình canh tác. Phân hữu cơ tuy có hàm lượng dinh dưỡng thấp nhưng có vai trò quan trọng trong giúp cải tạo đặc tính vật lý, hóa học và sinh học đất, giúp thay đổi dụng trọng, độ xốp đất, khả năng giữ nước của đất theo chiều hướng có lợi cho cây trồng, đồng thời tăng hàm lượng dưỡng chất trong đất và tăng 68 hoạt động sinh học trong đất so với đất không được bổ sung chất hữu cơ (Reeves, 1997; Võ Thị Gương và ctv., 2010; Brown and Cotton, 2011; Demir and Gülser, 2015; Gülser et al., 2015; Hazarika and Aheibam, 2019). Phân hữu cơ rất cần cho cây có múi, trong quá trình canh tác nên bón kết hợp phân bón hữu cơ, đặc biệt là phân hữu cơ vi sinh có chứa nấm Trichoderma sp. (Nguyễn Minh Hiếu và ctv., 2013; Võ Thị Gương và ctv., 2016). Theo Thomas và Morgan (2017) hàm lượng chất hữu cơ trong đất khoảng 5% là thích hợp cho cây cam sinh trưởng tốt. Hình 4.20 Đánh giá CHC trong đất và bệnh vàng lá thối rễ Ghi chú: Các chữ cái a,b,ctrên mỗi cột thể hiện khác biệt ý nghĩa qua kiểm định Tukey 5%(*) và thanh sai số trên đồ thị biểu thị độ lệch chuẩn (SD). 4.3.4 Đánh giá Nhd và tỷ lệ bệnh vàng lá thối rễ Quá trình khoáng hóa chất hữu cơ trong đất tạo ra các dưỡng chất đáp ứng nhu cầu sinh trưởng của cây trồng, hàm lượng chất hữu cơ cao dẫn đến nâng cao hàm lượng Nhd trong đất (Hồ Văn Thiệt, 2014; Võ Văn Bình và ctv., 2014; Tshering et al., 2020). Kết quả nghiên cứu được trình bày ở Hình 4.21 cho thấy hàm lượng Nhd trên vườn cam không bệnh khá cao (126,6 mg/kg), cao gấp hơn ba lần và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với vườn cam bị bệnh VLTR (36 mg/kg). Theo kết quả nghiên cứu của Robert (2015), cho rằng hàm lượng đạm hữu dụng đ
File đính kèm:
- luan_an_su_dung_phan_huu_co_vi_sinh_tu_nguon_nam_phan_lap_tr.pdf
- ~$ONG TIN LUAN AN -TIENG VIET - Nguyen Ngoc Thanh.doc
- QĐCT_Nguyễn Ngọc Thanh.pdf
- THONG TIN LUAN AN -TIENG ANH - Nguyen Ngoc Thanh.doc
- THONG TIN LUAN AN -TIENG VIET - Nguyen Ngoc Thanh.doc
- Tom tat Tieng Anh LA-Nguyen Ngoc Thanh.pdf
- Tom tat Tieng Viet LA Nguyen Ngoc Thanh.pdf