Luận án Thực trạng chẩn đoán và điều trị lao tiềm ẩn tại hai tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng và kết quả một số giải pháp can thiệp

Luận án Thực trạng chẩn đoán và điều trị lao tiềm ẩn tại hai tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng và kết quả một số giải pháp can thiệp trang 1

Trang 1

Luận án Thực trạng chẩn đoán và điều trị lao tiềm ẩn tại hai tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng và kết quả một số giải pháp can thiệp trang 2

Trang 2

Luận án Thực trạng chẩn đoán và điều trị lao tiềm ẩn tại hai tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng và kết quả một số giải pháp can thiệp trang 3

Trang 3

Luận án Thực trạng chẩn đoán và điều trị lao tiềm ẩn tại hai tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng và kết quả một số giải pháp can thiệp trang 4

Trang 4

Luận án Thực trạng chẩn đoán và điều trị lao tiềm ẩn tại hai tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng và kết quả một số giải pháp can thiệp trang 5

Trang 5

Luận án Thực trạng chẩn đoán và điều trị lao tiềm ẩn tại hai tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng và kết quả một số giải pháp can thiệp trang 6

Trang 6

Luận án Thực trạng chẩn đoán và điều trị lao tiềm ẩn tại hai tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng và kết quả một số giải pháp can thiệp trang 7

Trang 7

Luận án Thực trạng chẩn đoán và điều trị lao tiềm ẩn tại hai tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng và kết quả một số giải pháp can thiệp trang 8

Trang 8

Luận án Thực trạng chẩn đoán và điều trị lao tiềm ẩn tại hai tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng và kết quả một số giải pháp can thiệp trang 9

Trang 9

Luận án Thực trạng chẩn đoán và điều trị lao tiềm ẩn tại hai tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng và kết quả một số giải pháp can thiệp trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 223 trang Hà Tiên 13/06/2024 970
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Thực trạng chẩn đoán và điều trị lao tiềm ẩn tại hai tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng và kết quả một số giải pháp can thiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Thực trạng chẩn đoán và điều trị lao tiềm ẩn tại hai tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng và kết quả một số giải pháp can thiệp

Luận án Thực trạng chẩn đoán và điều trị lao tiềm ẩn tại hai tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng và kết quả một số giải pháp can thiệp
 thành các giai đoạn sàng lọc và chẩn 
đoán lao tiềm ẩn, đây cũng là nguyên nhân khuyến khích người tiếp xúc sắp 
97 
xếp công việc hoặc việc học tập để đến cơ sở y tế tham gia sàng lọc. Những 
điểm thuận lợi này, bên cạnh hiệu quả của các can thiệp của nghiên cứu, một 
phần cũng do địa bàn của quận Sơn Trà, quận Liên Chiểu (Đà Nẵng) và thành 
phố Tam Kỳ (Quảng Nam) là những quận/ huyện đồng bằng với diện tích vừa 
phải, các phường/ xã đều có hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông phát triển, 
những xã xa nhất cũng chỉ cách trung tâm y tế huyện tầm 10km. 
Riêng huyện Phú Ninh (tỉnh Quảng Nam) là huyện miền núi, địa bàn 
rộng (25.151,95 ha), hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông còn chưa phát triển, 
từ các xã miền núi xa nhất đến trung tâm y tế huyện, đường rất khó đi, hiểm 
trở, đặc biệt vào những thời điểm mưa bão. Mặc dù dưới các can thiệp của 
nghiên cứu, tỷ lệ người tiếp xúc tham gia vào các giai đoạn của chuỗi đa bậc 
quản lý lao tiềm ẩn ở Phú Ninh cao đồng đều nhất trong 4 quận/ huyện can 
thiệp, kết quả nghiên cứu cũng đã ghi nhận có những trường hợp không thể 
tham gia sàng lọc hoặc không hoàn thành sàng lọc do xã cư trú của người tiếp 
xúc quá xa, đi lại khó khăn. 
Tam Lãnh là một xã miền núi của huyện Phú Ninh, cách trung tâm y tế 
huyện Phú Ninh 30km, có nghề truyền thống đào vàng lâu năm, những cơ sở 
đào vàng chủ yếu là tự phát, không thuộc quản lý của chính quyền, do đó 
không đảm bảo an toàn lao động. Công nhân đào vàng, do đó, là những đối 
tượng có nguy cơ mắc lao cao. Bên cạnh đó, những khu vực đã được khai 
thác vàng cũng trở thành nguy cơ tiềm ẩn sạt lở nếu xảy ra mưa to. Nhóm 
nghiên cứu đã có 01 phỏng vấn sâu đối với người tiếp xúc ở xã Tam Lãnh, 
huyện Phú Ninh, Quảng Nam, ngoài ra có trao đổi nói chuyện với những gia 
đình còn lại trong xã, kết quả phỏng vấn cho thấy người dân mong muốn 
được tham gia sàng lọc, tuy nhiên, ngại đến trung tâm y tế huyện do giao 
thông không thuận lợi. 
98 
“Nhà mình cũng tổ chức một điểm khai thác vàng, ... Chồng mình đang 
điều trị lao phổi, trong xóm cũng có mấy người bị lao rồi. Thấy mấy em ở 
trung tâm y tế tư vấn vợ con nên đi khám xem có bị lây bệnh không, thì ba mẹ 
con cũng đã chở nhau đi khám, có tiêm xét nghiệm, hẹn 2 ngày quay lại đọc 
kết quả. Nhưng 2 ngày sau đấy đúng vào đợt mưa rất to, vùng này là vùng 
miền núi, đường sá đi lại rất khó khăn, toàn dốc không à, nhiều nơi toàn 
đường đất, nếu mưa to dễ trơn trượt, sụt lở đất. Hôm ấy mình cũng chở hai 
con định đi đọc kết quả, nhưng đi được một đoạn thấy nguy hiểm quá phải 
quay về. Sau đấy mấy em ở trung tâm y tế có điện thoại hỏi, thì cũng chỉ 
biết trình bày thế thôi. Từ hôm đấy đến nay ngại nên chưa đi kiểm tra lại, mà 
cũng không biết tiêm 1 lần rồi kiểm tra lại có được không nữa kìa” (trích 
Phỏng vấn sâu người tiếp xúc, nữ, 33 tuổi, vợ người bệnh chỉ điểm, huyện 
Phú Ninh, Quảng Nam). 
3.3.2. Rào cản đối với điều trị lao tiềm ẩn 
Từ kết quả nghiên cứu, sau khi được chỉ định điều trị lao tiềm ẩn, 
88,5% (485) người tiếp xúc đồng ý bắt đầu điều trị, 11,5% (63) người tiếp xúc 
từ chối điều trị. Đối với nhóm người tiếp xúc đã đồng ý điều trị (Bảng 3.14), 
85,8% (416) người hoàn thành điều trị, và 12,6% (61) người bỏ trị. Nhóm 
nghiên cứu đã tìm kiếm các nguồn thông tin để cố gắng tìm hiểu các rào cản 
dẫn đến quyết định không điều trị hoặc không hoàn thành điều trị của người 
tiếp xúc. Nhóm nghiên cứu chưa có cơ hội thực hiện phỏng vấn sâu đối với 
nhóm người tiếp xúc từ chối điều trị, do những người này thường từ chối 
được phỏng vấn; tuy nhiên, đã thu thập những thông tin liên quan từ nhân 
viên y tế và người bệnh chỉ điểm, và đã thực hiện 06 phỏng vấn sâu đối với 
những người đang điều trị, đã hoàn thành điều trị hoặc bỏ trị. 
99 
Đối với những người không đồng ý điều trị hoặc không hoàn thành 
điều trị lao tiềm ẩn, từ những thông tin được phỏng vấn, có thể nhận thấy có 
các rào cản chính sau: 
3.3.2.1. Không tin tưởng hiệu quả điều trị lao tiềm ẩn 
Nguy cơ phát triển bệnh lao phụ thuộc một số yếu tố, trong đó quan 
trọng nhất là tình trạng miễn dịch của cơ thể. 5-10% người nhiễm lao sẽ phát 
triển thành bệnh lao trong suốt cuộc đời của họ, và điều trị lao tiềm ẩn có thể 
ngăn ngừa 60-90% nguy cơ phát triển bệnh lao (WHO). Tuy nhiên, do chưa 
có nhận thức đúng và đầy đủ về điều trị lao tiềm ẩn, một số người tiếp xúc 
nghi ngờ hiệu quả của điều trị lao tiềm ẩn trong việc ngăn ngừa nguy cơ phát 
triển thành bệnh lao, nên không chấp nhận điều trị. 
“Có mấy người có hỏi hoài là điều trị có khẳng định là ngừa được bệnh 
lao không, chị cũng trả lời miết là có hiệu quả, nhưng họ hỏi có chắc chắc được 
100% không thì chị không trả lời được. Người ta bảo giờ đang khoẻ mạnh thế 
này làm sao phải uống thuốc, sàng lọc ra bệnh lao mới điều trị chứ bảo nhiễm 
lao rồi bắt uống bao nhiêu thuốc vào người thì không chịu” (trích Phỏng vấn 
sâu nhân viên y tế trung tâm y tế quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng). 
“Bố mẹ thường xót con ấy chị, nên mấy bé nhỏ là bố mẹ ít khi cho điều 
trị lắm, mặc dù em tư vấn nhiều lần rồi đấy, nhưng họ cứ bảo chẳng biết hiệu 
quả ở đâu, chứ nhìn thấy trước là uống bao nhiêu thuốc rồi, họ còn bảo con họ 
uống dự phòng viêm phổi rồi vẫn cứ bị lại đấy thôi, nên không tin tưởng 
những thuốc dự phòng” (trích Phỏng vấn sâu nhân viên y tế trung tâm y tế 
thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam). 
3.3.2.2. Thời gian điều trị lao tiềm ẩn 
Thời gian điều trị kéo dài (9 tháng sử dụng thuốc Isoniazid hàng ngày 
đối với người lớn và 6 tháng sử dụng thuốc Isoniazid hàng ngày đối với trẻ 
em) của phác đồ điều trị lao tiềm ẩn mà Chương trình chống lao áp dụng ở 
100 
giai đoạn triển khai nghiên cứu là một nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng 
một số người tiếp xúc không đồng ý điều trị hoặc bỏ trị. 
“Em đã bỏ trị sau khi uống 3 tháng. Nguyên nhân là do phải uống lâu quá, 
hay quên quá Bạn cùng phòng trọ của em thì uống được 1 tháng thì bỏ, nên 
em cũng mất động lực” (trích Phỏng vấn sâu người tiếp xúc, nam, 21 tuổi, 
bạn cùng phòng trọ với người bệnh chỉ điểm, phường Liên Chiểu, Đà Nẵng). 
“Có mấy bé nhỏ tư vấn mãi thì bố mẹ bé mới chịu đăng ký điều trị cho 
bé, nhưng đến lúc điều trị được một đợt thì bỏ trị luôn, em gọi điện hỏi thì 
thấy bảo bé khó uống thuốc lắm, hàng ngày cứ phải nghiền viên thuốc ra cho 
bé uống, mà bé cứ chống, lâu ngày mệt mỏi quá nên thôi” (trích Phỏng vấn 
sâu nhân viên y tế trung tâm y tế thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam). 
“Cô hiểu bệnh lao chứ, sợ lắm, nên cả nhà mới cùng đi kiểm tra và 
cùng uống thuốc. Giờ bỏ thuốc cũng sợ bị thành bệnh lao lắm cô cũng biết 
nếu cô hoàn thành điều trị thì sau này cô không sợ bị mắc lao nữa nếu có 
thuốc nào khác cũng điều trị lao tiềm ẩn, mà thời gian ngăn ngắn hơn thì lại 
gọi cô, cô đồng ý điều trị lại” (trích Phỏng vấn sâu người tiếp xúc, nữ, 42 
tuổi, con gái người bệnh chỉ điểm, thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam). 
3.3.2.3. Phản ứng bất lợi của thuốc điều trị lao tiềm ẩn 
Phản ứng bất lợi của thuốc điều trị lao tiềm ẩn, mặc dù tỷ lệ xảy ra 
không nhiều, nhưng cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ngừng điều trị ở 
một số người bệnh. Theo kết quả điều trị, chỉ 5 trường hợp dừng điều trị do 
xảy ra phản ứng bất lợi, chiếm 1% trong tổng số người tiếp xúc điều trị lao 
tiềm ẩn. Nhóm nghiên cứu đã tiếp cận phỏng vấn 01 người bệnh tại thành phố 
Tam Kỳ, Quảng Nam để tìm hiểu mức độ nghiêm trọng của phản ứng bất lợi 
dẫn đến quyết định ngừng điều trị. 
“Cô uống thuốc được 1 tháng thì thấy mệt quá, không chịu được. Cô 
trước sức khỏe tốt, còn đi tập gym, cứ 4h sáng dậy đi tập gym, đến lúc uống 
101 
thuốc vào thì lúc nào cũng thấy mệt, đau mỏi xương khớp, cảm giác khó chịu, 
mệt mỏi, không chịu được. Sau cô đọc thêm trên internet, thấy uống thuốc 
này nhiều người bị tác dụng phụ như vậy, bản thân cô thấy mệt thật chứ 
không phải là do tưởng tượng ra, nên cô thôi Với cả uống thuốc ấy có làm 
xấu da không cháu? Chứ da cô trước giờ ai cũng khen đẹp hết, mà uống thuốc 
xong một cái da xấu, xạm hẳn đi, nhìn thấy rõ luônCác tác dụng phụ của 
thuốc ngay từ lúc uống đã xảy ra, rồi lúc cô ngừng uống phải tầm chục ngày 
sau mới hết tất cả các dấu hiệu đấy. Chứ không phải là dừng uống là hết luôn 
đâu” (trích Phỏng vấn sâu người tiếp xúc, nữ, 42 tuổi, con gái người bệnh 
chỉ điểm, thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam). 
Bảng 3.24. Tổng hợp các rào cản ảnh hưởng tới sàng lọc, chẩn đoán và 
điều trị lao tiềm ẩn 
Rào cản đối với sàng lọc lao tiềm ẩn 
Rào cản đối với điều 
trị lao tiềm ẩn 
- Rào cản từ phía dịch vụ y tế (kỹ năng truyền 
thông/ tư vấn, nhận thức về hiệu quả của điều trị 
lao tiềm ẩn, sự tham gia còn hạn chế của nhân 
viên y tế tuyến xã trong quá trình điều tra người 
tiếp xúc). 
- Hạn chế trong nhận thức về lao, lao tiềm ẩn. 
- Tình trạng kỳ thị và tự kỳ thị đối với bệnh lao. 
- Thói quen trong hành vi tìm kiếm chăm sóc y tế. 
- Tiếp cận dịch vụ y tế cung cấp sàng lọc và quản 
lý lao tiềm ẩn. 
- Không tin tưởng 
hiệu quả điều trị 
lao tiềm ẩn. 
- Thời gian điều trị 
lao tiềm ẩn. 
- Phản ứng bất lợi 
của thuốc điều trị 
lao tiềm ẩn. 
102 
CHƯƠNG 4 
BÀN LUẬN 
4.1. Sàng lọc người tiếp xúc với người bệnh lao phổi và điều trị lao tiềm 
ẩn tại Quảng Nam và Đà Nẵng năm 2016 
Tại Việt Nam, từ đầu những năm 2000, chương trình quản lý lao tiềm 
ẩn đã bắt đầu triển khai cho nhóm đối tượng người nhiễm HIV. Đến năm 
2012, đối tượng được điều trị lao tiềm ẩn mở rộng thêm cho nhóm trẻ em 
dưới 5 tuổi và dưới 15 tuổi có HIV(+) sống chung với nguồn lây lao. Từ năm 
2015, hoạt động quản lý và điều trị dự phòng lao tiểm ẩn ở trẻ em đã được mở 
rộng ra toàn quốc. 
Số liệu Chương trình chống lao Quốc gia (CTCLQG) cho thấy, năm 
2016, tỷ lệ trung bình trên toàn quốc của trẻ dưới 5 tuổi bắt đầu điều trị lao 
tiềm ẩn trong số trẻ được sàng lọc tiếp xúc hộ gia đình với bệnh nhân lao phổi 
đạt 30,1%; tuy nhiên, tỷ lệ này ở Quảng Nam và Đà Nẵng có thấp hơn đáng 
kể, cụ thể, CTCL Quảng Nam đã lập danh sách 324 trẻ dưới 5 tuổi tiếp xúc hộ 
gia đình với người bệnh lao phổi, nhưng chỉ có 10 trẻ đồng ý điều trị dự 
phòng (6 tháng Isoniazid), chiếm 3,1%; tỷ lệ cao hơn một chút ở Đà Nẵng, 30 
trẻ đồng ý điều trị dự phòng trong tổng số 252 (11,9%) trẻ dưới 5 tuổi tiếp xúc 
hộ gia đình với người bệnh lao phổi được lập danh sách (Báo cáo CTCLQG 
2016). Bên cạnh đó, quy trình sàng lọc, chẩn đoán, điều trị lao tiềm ẩn tại thời 
điểm này chưa toàn diện theo chuỗi đa bậc 9 bước quản lý lao tiềm ẩn. 
Những kết quả này hoàn toàn phù hợp với số liệu thứ cấp nhóm nghiên 
cứu tổng hợp và phân tích tại các quận/ huyện của Quảng Nam, Đà Nẵng năm 
2016, cụ thể, ở 4 huyện can thiệp (Tam Kỳ, Phú Ninh, Sơn Trà, Liên Chiểu), 
số liệu ban đầu năm 2016 về thực trạng quản lý lao tiềm ẩn trên địa bàn cho 
thấy tỷ lệ nhận diện người tiếp xúc tại thời điểm này chỉ đạt 12,5% so với 
103 
tổng số người tiếp xúc ước tính, số người bắt đầu điều trị lao tiềm ẩn chỉ đạt 
0,6%. (Bảng 3.1). 
Tuy nhiên, năm 2016, đối tượng tiếp xúc hộ gia đình được khai thác 
thông tin chỉ là trẻ em dưới 5 tuổi hoặc trẻ 5-14 tuổi có HIV(+), do đó, tỷ lệ 
người tiếp xúc được nhận diện đạt 12,5% trong tổng số người tiếp xúc ước 
tính (mọi lứa tuổi) là khá hợp lý. Tính riêng tỷ lệ người tiếp xúc tham gia sàng 
lọc trong số NTX được nhận diện, tỷ lệ đạt tới 91,4%; mặc dù vậy, tỷ lệ điều 
trị (tích luỹ) chỉ đạt 0,6%, hoặc tính riêng trong số người tham gia sàng lọc 
chỉ đạt 5% là một tỷ lệ thấp đáng quan ngại. Theo hướng dẫn của CTCLQG ở 
thời điểm này, trẻ em dưới 5 tuổi hoặc trẻ 5-14 tuổi có HIV(+) nếu loại trừ mắc 
lao đều được tư vấn điều trị lao tiềm ẩn, tỷ lệ chỉ 5% người tiếp xúc bắt đầu điều 
trị lao tiềm ẩn trong tổng số tham gia sàng lọc cho thấy những thiếu hụt, yếu kém 
trong kỹ năng tư vấn của nhân viên y tế, cũng như những rào cản từ phía gia 
đình người bệnh đối với việc chấp nhận điều trị lao tiềm ẩn. 
Tại các huyện can thiệp, năm 2016, Sơn Trà cho thấy sự triển khai vượt 
trội hơn về tỷ lệ khai thác người tiếp xúc với người bệnh lao phổi và tỷ lệ 
người tiếp xúc tham gia sàng lọc lao tiềm ẩn; ngoài ra, chỉ riêng Sơn Trà có 7 
người tiếp xúc bắt đầu điều trị lao tiềm ẩn, trong khi 3 quận/ huyện còn lại 
không có bất kỳ người tiếp xúc nào đồng ý điều trị. Nguyên nhân một phần do 
chuyên trách lao ở Trung tâm y tế quận Sơn Trà là bác sỹ chuyên khoa lao có 
kinh nghiệm, tâm huyết với các can thiệp phòng chống lao, đặc biệt đối với 
đối tượng trẻ em. 
Thời điểm này, CTCLQG đã mở rộng quản lý lao tiềm ẩn trong nhóm 
trẻ dưới 5 tuổi và trẻ 5-14 tuổi có HIV dương tính ra toàn quốc, tuy nhiên, 
việc thực hiện chính sách này tại các tỉnh chưa thật sự nghiêm túc, và chưa 
xem đây là một nhiệm vụ chính của chương trình chống lao tại địa phương, 
dẫn đến việc triển khai sàng lọc, tư vấn điều trị cũng như sổ sách ghi chép, 
báo cáo chưa đầy đủ. Có thể dễ nhận thấy số liệu báo cáo thời điểm này 
104 
không bao gồm các ghi chép liên quan đến số người bệnh có thể nhận diện 
người tiếp xúc, số trẻ tiếp xúc thực tế được nhận diện, số trẻ được khuyến cáo 
thực hiện thẩm định y khoa, số trẻ được tư vấn điều trị lao tiềm ẩn, và số trẻ 
hoàn thành điều trị lao tiềm ẩn. Điều này cũng gây ra hạn chế trong việc so 
sánh trước can thiệp và sau can thiệp đối với toàn bộ chuỗi đa bậc quản lý lao 
tiềm ẩn. 
4.2. Chuỗi đa bậc quản lý lao tiềm ẩn tại Quảng Nam và Đà Nẵng sau khi 
triển khai can thiệp 
Kết quả phân tích dịch vụ đa bậc quản lý lao tiềm ẩn bằng phương 
pháp tổng quan hệ thống và phân tích gộp từ 58 nghiên cứu trên thế giới, 
748.572 đối tượng tiếp xúc giai đoạn từ 1990 - 2015 được cụ thể hoá ở 
Biểu đồ 4.1. dưới đây. So sánh với kết quả từ 58 nghiên cứu, kết quả của 
các can thiệp đối với các giai đoạn của chuỗi đa bậc quản lý lao tiềm ẩn 
tại địa bàn nghiên cứu ở Quảng Nam và Đà Nẵng không có sự chênh lệch 
đáng kể (Biểu đồ 4.1). 
Biểu đồ 4.1. So sánh kết quả phân tích dịch vụ đa bậc quản lý lao tiềm ẩn 
từ 58 nghiên cứu trên thế giới và tại Quảng Nam, Đà Nẵng (Việt Nam). 
100.0%
71.9%
66.7% 56.0%
43.7% 35.0% 30.7% 18.80%
100.0%
65.6% 65.4%
47.8% 46.8%
33.8% 29.9%
25.6%
0.0%
20.0%
40.0%
60.0%
80.0%
100.0%
120.0%
0.0%
20.0%
40.0%
60.0%
80.0%
100.0%
120.0%
NTX được 
nhận diện
NTX đến 
khám sàng 
lọc
NTX hoàn 
tất sàng lọc
NTX đủ 
điều kiện 
thẩm định y 
khoa
NTX hoàn 
tất thẩm 
định y khoa
NTX được 
chỉ định 
điều trị 
LTA
NTX tiến 
hành điều 
trị LTA
NTX hoàn 
thành điều 
trị LTA
58 nghiên cứu Quảng Nam và Đà Nẵng
105 
4.2.1. Giai đoạn sàng lọc lao tiềm ẩn 
Sau can thiệp, tỷ lệ hoàn thành sàng lọc lao tiềm ẩn ở hai tỉnh can thiệp 
Quảng Nam và Đà Nẵng (65,4%) có thấp hơn khi so sánh với một số nước 
khác trên thế giới. Kết quả phân tích dịch vụ đa bậc quản lý lao tiềm ẩn từ 58 
nghiên cứu trên thế giới đối với 748.572 người trong giai đoạn 1990-2015 cho 
thấy tỷ lệ hoàn thành sàng lọc lao tiềm ẩn là 71,9% [18], và tỷ lệ này trong 
nghiên cứu cắt ngang quản lý lao tiềm ẩn trong nhóm tiếp xúc tại cơ sở y tế 
ban đầu ở Brazil năm 2016 là 79,4% [69]. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã công 
bố kết quả về chuỗi dịch vụ đa bậc quản lý lao tiềm ẩn chủ yếu tập trung ở 
những quốc gia có thu nhập cao, cụ thể, 57/65 (87,7%) nhóm nghiên cứu 
thuộc quốc gia có mức thu nhập cao trong 58 nghiên cứu được tổng quan tài 
liệu từ giai đoạn 1990-2015, Brazil cũng là quốc gia có nền kinh tế phát triển 
nhất Nam Mỹ, thứ hai ở Châu Mỹ sau Hoa Kỳ, tương ứng sẽ quan tâm và có 
nhiều nguồn lực hơn cho y tế, gánh nặng bệnh lao ở những quốc gia có thu 
nhập cao cũng rất thấp, chỉ <10/100.000 dân, do đó, thuận lợi hơn trong kiểm 
soát và triển khai các can thiệp đối với bệnh tật [1]. 
Tỷ lệ người tiếp xúc HGĐ không đồng ý tham gia sàng lọc chiếm 
32,9%, trong đó, 2 quận can thiệp ở Đà Nẵng chiếm đến 74,7% cho thấy 
nhiều khó khăn, cản trở hơn trong việc tiếp cận và thuyết phục người dân ở 
thành phố lớn tham gia vào các can thiệp nghiên cứu, do họ có thể có những 
mối quan tâm nhiều hơn bên cạnh sức khoẻ. Tỷ lệ nữ giới không đồng ý sàng 
lọc lao tiềm ẩn cao hơn nam giới (52,4% so với 47,6%), mặc dù chênh lệch 
không quá nhiều, cũng gợi ý nữ giới ít có điều kiện tiếp cận các chương trình 
chăm sóc sức khoẻ hơn, góp phần lý giải một trong các nguyên nhân dẫn đến 
tỷ lệ hiện mắc lao ở nam giới đang cao hơn nữ giới 4,2 lần theo kết quả điều 
tra dịch tễ lao toàn quốc lần thứ 2 năm 2017. 
106 
Đối với tỷ lệ bằng chứng miễn dịch học về tình trạng nhiễm lao, ở địa 
bàn can thiệp, trong số 1.064 người tiếp xúc tham gia sàng lọc, có 635 người 
tiếp xúc có kết quả xét nghiệm Mantoux dương tính (59,7%), tỷ lệ dương tính 
ở Đà Nẵng cao hơn có ý nghĩa thống kê so với Quảng Nam, 62,4% so với 
52,9% (p<0,001). Tính riêng trong nhóm thực hiện xét nghiệm Mantoux 
(1.025 người tiếp xúc), 62% (635) có kết quả Mantoux dương tính. Tỷ lệ này 
cao hơn đáng kể so với kết quả nghiên cứu cắt ngang phân tích và theo dõi 
dọc nhằm xác định tỷ lệ nhiễm lao tiềm ẩn dựa vào kết quả của xét nghiệm 
IGRAs ở người nhà tiếp xúc với người bệnh lao phổi có AFB dương tính (+) 
tại bệnh viện Lao và Bệnh phổi tỉnh Bình Định từ năm 2011 đến năm 2013 
(IGRAs dương tính chiếm tỷ lệ 36,5%) [59], điểm khác ở hai nghiên cứu này 
là sử dụng hai phương pháp xét nghiệm khác nhau, mặc dù đã có các bằng 
chứng chỉ ra không có sự khác biệt về kết quả của xét nghiệm Mantoux và 
IGRAs trong chẩn đoán lao tiềm ẩn [5], xét nghiệm Mantoux đôi khi vẫn phụ 
thuộc vào kỹ năng tiêm trong da và tính chủ quan khi đọc kết quả của kỹ thuật 
viên xét nghiệm. 
So sánh với các nghiên cứu khác trên thế giới, nghiên cứu ở Quảng 
Nam và Đà Nẵng có kết quả cao hơn đáng kể nghiên cứu thuần tập trong 
nhóm tiếp xúc hộ gia đình ở Georgia (52,7%) [78], nghiên cứu cắt ngang 
quản lý lao tiềm ẩn trong nhóm tiếp xúc tại cơ sở y tế ban đầu ở Brazil năm 
2016 (48%) [69], tương đương với kết quả của một nghiên cứu cắt ngang để 
xác định tỷ lệ nhiễm lao tiềm ẩn trong nhóm người tiếp xúc hộ gia đình với 
người bệnh lao ở Tanzania, cũng sử dụng phương pháp xét nghiệm Mantoux 
để chẩn đoán (62,5%) [71], và thấp hơn 4% so với tỷ lệ Mantoux dương tính 
trong nhóm trẻ em dưới 15 tuổi tiếp xúc hộ gia đình với người bệnh lao phổi 
có độ tuổi từ 16-65 trong một nghiên cứu người tiếp xúc ở Malawi (66%) 
[72], tuy nhiên, tỷ lệ Mantoux dương tính cao hơn trong nhóm trẻ em tiếp xúc 
107 
hộ gia đình với người bệnh lao phổi so với các nhóm tuổi khác không phải là 
một kết quả đáng ngạc nhiên, do trẻ em vẫn được TCYTTG đánh giá là nhóm 
đối tượng có nguy cơ mắc lao cao nhất nếu là người tiếp xúc hộ gia đình với 
người bệnh lao phổi. Một điểm cần lưu ý là nghiên cứu ở Quảng Nam, Đà 
Nẵng và Georgia xác định kết quả Mantoux dương tính khi đường kính ngang 
của nốt sẩn đo được ≥ 5mm sau khi tiêm 48 giờ trong khi các nghiên cứu ở 
Brazil, Tanzania và Malawi không chỉ rõ tiêu chuẩn xác định kết quả phản 
ứng dương tính; nên không thể chắc chắn có cùng với tiêu chuẩn được xác 
định trong nghiên cứu ở Quảng Nam và Đà Nẵng hay không. Sự khác nhau 
trong xác định tiêu chuẩn phản ứng dương tính hay âm tính của xét nghiệm 
Mantoux cũng dẫn đến sự khác biệt rõ rệt trong tỷ lệ phản ứng dương tính của 
các nghiên cứu. Do đó, chỉ có thể nhận định tỷ lệ Mantoux dương tính trong 
nhóm tiếp xúc hộ gia đình ở Quảng Nam và Đà Nẵng cao hơn ở Georgia do 
có sự tương đồng về đối tượng và tiêu chuẩn đánh giá phản ứng dương tính. 
Việc triển khai các can thiệp đồng bộ trên địa bàn can thiệp đã tạo nên 
một bước tiến vượt bậc so với giai đoạn trước khi triển khai can thiệp, chứng 
minh tác động tích cực của nghiên cứu, cụ thể, số người tiếp xúc tham gia 
sàng lọc trước can thiệp đạt 12,5%, trong khi tỷ lệ này sau khi triển khai can 
thiệp đạt trên 65,6%. Tuy nhiên, mặc dù có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
khi so sánh giai đoạn trước và sau can thiệp, số liệu nghiên cứu cũng đã chỉ ra 
một kết quả chưa được như mong đợi về tỷ lệ người tiếp xúc không tham gia 
và hoàn t

File đính kèm:

  • pdfluan_an_thuc_trang_chan_doan_va_dieu_tri_lao_tiem_an_tai_hai.pdf
  • pdf02.English_Tom tat luan an_Luong Anh Binh.pdf
  • pdf02.Tom tat luan an_Luong Anh Binh.pdf
  • docx03.Thong tin ket luan moi cua luan an_Luong Anh Binh.docx
  • docx03.Tieng Anh_Thong tin ket luan moi cua luan an.docx
  • pdf04.Trich yeu luan an tien sy_Luong Anh Binh.pdf